Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Bệ Ma Túc

17 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 13305)
Kinh Bệ Ma Túc


PHẬT NÓI KINH BỆ MA TÚC


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0090 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

 Hán dịch: Ðời Tống, Thiên Trúc, Tam tạng Cầu Na Bạt Ðà La.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

---o0o--- 


 

Nghe như vầy:

Một thời Bạt Già Bà ở tại rừng cây ông Kỳ Ðà, vườn ông Cấp Cô Ðộc, thành Xá vệ. Bấy giờ Bệ Ma Túc người theo học thuyết khác, sau giờ ngọ thong thả đi đến chỗ đức Thế Tôn, đến xong bạch đức Thế Tôn rằng:

-Thưa Cù Ðàm, hình sắc thật vi diệu vô thượng.

-Này Ca Chiên Diên, thế nào là sắc vi diệu?

-Này Cù Ðàm, đó là sắc vi diệu, cực diệu, không có sự vi diệu nào tối thắng hơn. Nó là tối diệu, rất đẹp, sắc ấy là tối diệu, sắc ấy là tối thượng, rất đẹp.

-Này Ca Chiên Diên, giống như có người nói như vầy: “Người ấy thật đẹp, tôi muốn dâm dục cùng nàng”. Hoặc có người hỏi: “Ngươi bảo người ấy tuyệt đẹp đối với mọi người, vậy người ấy tên gì, họ gì, hình dạng ra sao, cao hay thấp, hay trung bình, đoan chánh hay không đoan chánh, trắng hay đen, kẻ ấy là con gái của Sát đế lợi, Bà la môn, cư sĩ hay con gái của thợ thuyền? Kẻ ấy từ phương Ðông, phương Nam, phương Tây hay phương Bắc đến? Hỏi như vậy rồi nhưng không thể trả lời được. Ngươi không biết, không thấy mà bảo rằng người ấy đẹp nhất trong mọi người ấy, đến phương Bắc, rồi nói là “muốn dâm dục”.

-Này Ca Chiên Diên, ngươi đã nói “sắc ấy là tối diệu, sắc ấy là tối thượng, sắc ấy không có gì hơn được”, nhưng lại hỏi sắc ấy thì lại không thể biết.

-Này Cù Ðàm, giống như vàng Diêm Phù Ðàn được người thợ thiện xảo ra sức mài dũa, làm cho sạch sẽ rồi gắn ngọc trắng vào bên trong, hình sắc cực đẹp, màu sắc chiếu sáng. Cho nên, này Cù Ðàm, tôi mới nói: sắc ấy là tối diệu, sắc ấy là tối thắng; sắc ấy là tối thắng, sắc ấy là vô thương, sắc ấy là tối thượng.

Cho nên này Ca Chiên Diên, ta lại hỏi ngươi, tùy theo ý nghĩtrả lời ta. Này Ca Chiên Diên, ý ngươi thế nào? Vàng Diêm Phù Ðàn này được người thợ thiện xảo ra sức mài dũa, làm cho nó được sạch rồi gắn ngọc trắng bên trong, hình sắc chiếu sáng. Vậy ánh sáng của con đom đóm lúc trời tối cùng sắc của vàng Diêm Phù Ðàn chiếu sáng, thì ánh sáng nào tối thắng, tối thượng, tối diệu, tối hảo hơn?

-Này Cù Ðàm, ánh sáng của con đom đóm so với ánh sáng của vàng Diêm Phù Ðàn thì nó quang minh, tối thượng, tối hảo, tối diệu hơn.

-Này Ca Chiên Diên, ý ngươi thế nào? Ánh sáng của con đom đóm lúc đêm tối cùng với ánh sáng của đèn dầu trong đêm tối, vậy ánh sáng nào tối thắng, tối thượng, tối diệu, tối hảo hơn?

-Thưa Cù Ðàm, ánh sáng của đèn dầu so với ánh sáng của con đom đóm thì ánh sáng ấy là tối thắng, tối thượng, tối diệu, tối hảo hơn.

-Này Ca Chiên Diên, ý ngươi thế nào? Ánh sáng của đèn dầu chiếu sáng trong đêm tối, so với ngọn đuốc lớn chiếu sáng trong đêm tối thì ánh sáng nào tối thắng, diệu hảo, tối thượng?

-Thưa Cù Ðàm, ánh sáng của ngọn đuốc lớn so với ánh sáng của đèn dầu thì nó tối thắng, tối thượng, diệu hảo hơn.

-Này Ca Chiên Diên, ý ngươi thế nào? Ánh sáng của ngọn đuốc lớn chiếu sáng trong đêm tối so với ánh sáng của ngôi sao chói sáng trên bầu trời trong sáng không có mây che vào lúc quá nửa đêm, thì ánh sáng nào tối thắng hết sức diệu hảo?

-Thưa Cù Ðàm, ánh sáng của ngôi sao so với ánh sáng của bó đuốc thì nó quang minh, tối thắng, hết sức diệu hảo hơn.

-Này Ca Chiên Diên, ý ngươi thế nào? Ánh sáng của ngôi sao vào lúc quá nửa đêm trên bầu trời lúc không có mây che so với ánh sáng của mặt trăng trên bầu trời không có mây che vào lúc quá nửa đêm. Vậy ánh sáng nào tối thắng, hết sức diệu hảo hơn?

-Thưa Cù Ðàm, ánh sáng của mặt trăng so với ánh sáng của ngôi sao thì ánh sáng của mặt trăngtối thắng, hết sức diệu hảo.

-Này Ca Chiên Diên, ý ngươi thế nào? Ánh sáng của mặt trăng lúc nửa đêm khi trời trong vắt, không có mây che, so với ánh sáng của mặt trời lúc giữa trưa vào mùa hè thì ánh sáng nào tối thắng, vô cùng diệu hảo hơn?

-Thưa Cù Ðàm, ánh sáng của mặt trời so với ánh sáng của mặt trăng thì nó tối thắng, vô cùng diệu hảo hơn.

-Này Ca Chiên Diên, có rất nhiều cõi trờioai thần như vậy, có ánh sáng vô cùng mà không có gì sánh kịp. Ta vốn ngồi ở trong ấy, vốn ở trong đó mà nói. Ta không nói: “Ánh sáng tối thắng, ánh sáng tối thượng, ánh sáng tối diệu”. Này Ca Chiên Diên, cái ánh sáng của con đom đóm là rất nhỏ, không sánh bằng. Ngươi lại nói: “Tối thượng, tối thắng, tối diệu” sao khi hỏi về ánh sáng thì ngươi không thể biết?

Khi ấy Bệ Ma Túc bị đức Thế Tôn mắng thẳng vào mặt, im lặng mà đứng, chẳng có lời biện bạch, thân, mặt xấu hổ, chẳng nói gì, im lặng mà đứng.

Bấy giờ đức Thế Tôn quở trách thẳng vào mặt của Bệ Ma Túc rồi, Ngài lại bảo Bệ Ma Túc:

-Lại nữa, này Ca Chiên Diên, có năm thứ sắc dục ái, niệm ái, gần với dâm, nhiễm trước. Ðó là: mắt thấy sắc, tai biết tiếng, mũi biết hương, lưỡi biết vị, thân biết xúc êm dịu.

Này Ca Chiên Diên, hoặc có yêu sắc, hoặc không yêu sắc, đó là hoặc có người đối với sắc rất hoan hỷ, ý niệm hoan hỷ cũng đầy đủ; đối với sắc này hay đối với sắc kia, không muốn, không nghĩ, không mong được, không cầu, đó là sắc tối diệu, tối thượng.

Này Ca Chiên Diên, hoặc có người yêu thinh, hương, vị, mịn láng; hoặc có người không yêu mịn láng; hoặc có người đối với vật mịn láng thì rất hoan hỷ, ý sở niệm hoan hỷ cũng đầy đủ; đối với vật mịn láng kia hoặc vật mịn láng khác không muốn, không nghĩ, không muốn được, không cầu mong, vật mịn láng đó là tối thượng, tối diệu.

Bấy giờ Bệ Ma Túc chắp tay hướng về Thế Tôn, thưa đức Thế Tôn:

-Thật là kỳ diệu, thưa Cù Ðàm, sa môn Cù Ðàm đã dùng vô lượng phương tiện nói cho con nghe về dâm lạc, cầu dâm lạc. Giống như, thưa Cù Ðàm, cây cỏ nhờ lửa mà cháy, lửa nhơn cây cỏ mà bốc cháy. Cũng như vậy, sa môn Cù Ðàm của con dùng vô lượng phương tiện nói về dâm, nói về sự đình chỉ dâm lạc, cầu dâm lạc.

-Này Ca Chiên Diên, ngươi làm bất thiện cho nên đối với việc ấy mới mãi mãi có kiến khác, có nhẫn khác, có dục khác, có cầu khác. Ðiều ta đã nói bình đẳng ban bố, bình đẳng mà biết nghĩa ấy.

Này Ca Chiên Diên, các Tỳ kheo đệ tử của ta, sáng sớm thức dậy và chiều đến thường không nằm ngủ, thường hay giảng luận để thành tôn đạo, đầy đủ phân biệt, “sanh đã hết, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm xong, đã biết như chơn về danh, sắc”. Ðiều ta đã nói bình đẳng ban bố, bình đẳng mà biết nghĩa ấy.

Bấy giờ Bệ Ma Túc hết sức sân hận đối với Thế Tôn, trong lòng bực tức, không hoan hỷ, nói với Thế Tôn, bài xích Thế Tôn, mắng chửi Thế Tôn.

-Như vậy, thưa sa môn Cù Ðàm, đó chẳng phải là mắng chửi.

Nói như vậy xong, thưa với Thế Tôn:

-Này Cù Ðàm, hoặc có sa môn, bà la môn không biết đời quá khứ, không biết đời đương lai, vô lượng đời sốngthế gian, nhưng vẫn cứ nói: “Ðời sống của Thánh đã chấm dứt, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm xong, đã biết như chơn về danh, sắc”.

Bấy giờ đức Thế Tôn nghĩ như vầy: rằng Bệ Ma Túc hết sức sân hận đối với ta, trong lòng vô cùng bực tức, không hoan hỷ, bài báng ta, mạ lị ta: “Này sa môn Cù Ðàm, tôi đã mắng chửi”, rồi thưa với ta: “Này Cù Ðàm, hoặc có sa môn, bà la môn không biết đời quá khứ ... cho đến biết như chơn”. Ðức Thế Tôn biết như vậy rồi bảo Bệ Ma Túc rằng:

-Này Ca Chiên Diên, hoặc có sa môn, bà la môn không biết đời quá khứ ... cho đến biết như chơn. Khi ấy nên nói như vầy: “Hãy để đời quá khứ lại, hãy để đời đương lai lại, không nên nghĩ một đời”.

Lại nữa, này Ca Chiên Diên, ta nói như vầy: “Hãy để đời quá khứ lại, hãy để đời đương lai lại, không nên nghĩ một đời”. Các Tỳ kheo đệ tử của ta không dua nịnh, cũng không như huyễn, hành động ngay thẳng. Ta dạy dỗ họ, ta thuyết pháp cho họ, như đã trình bày đều có thể học tập, gần với pháp, biết đó là thiện. Giống như, này Ca Chiên Diên, có đồng nam trẻ tuổi, bị cha mẹ cột tay chân lại. Khi đó nếu có trí tuệ, cha mẹ nó sẽ mở trói tay chân cho. Nó chỉ nhớ đến việc mở trói, không nghĩ đến việc cột. Như vậy, này Ca Chiên Diên, ta nói như vầy: “Hãy để đời quá khứ lại ... cho đến biết có điều thiện”. Này Ca Chiên Diên, giống như nhân dầu và tim bấc mà đèn được cháy. Hoặc có người không đổ dầu, cũng không thay tim bấc, tim dầu có trước đã hết, sau chẳng thêm vào, không lâu đèn ấy sẽ tắt liền. Như vậy, này Ca Chiên Diên, ta nói như vầy: “Hãy để đời quá khứ lại ... cho đến biết có thiện”.

Này Ca Chiên Diên, giống như có mười cây gỗ dụm lại, hai mươi, ba mươi, bốn mươi, năm mươi, sáu mươi cây gỗ dụm lại, dùng lửa đốt cháy nên biết có một đám lửa lớn. Hoặc có người không dùng củi, không dùng cỏ, không dùng phân trâu, không dùng trấu, không dùng rơm bỏ vào đống lửa, thì không bao lâu nó sẽ tắt ngúm, không còn dùng được, tiêu diệt nhanh chóng.

Như vậy, này Ca Chiên Diên, ta đã nói: “Hãy để đời quá khứ lại ... cho đến biết có thiện”.

Ðức Phật nói như vậy, bấy giờ Bệ Ma Túc xa lìa trần cấu, sanh các pháp nhãn. Bấy giờ Bệ Ma Túc thấy pháp, đắc pháp, liễu ngộ pháp, thanh tịnh đối với pháp, xa lìa tà, hết nghi, lại không còn tôn kính trời, không còn tin ở người khác nữa, lìa các do dự, được an lập quả chứng, được pháp vô úy đối với cảnh giới của đức Thế Tôn, từ tòa đứng dậy, đầu mặt lạy dưới chân đức Thế Tôn, thưa đức Thế Tôn:

-Con có thể được học đạo với đức Thế Tôn, thọ cụ túc, làm Tỳ kheo, theo Thế Tôn để tu hành phạm hạnh?

-Này Tỳ kheo, hãy hành phạm hạnh.

Bệ Ma Túc học đạo với Thế Tôn, thọ cụ túc, làm Tỳ kheo.

Tôn giả Bệ Ma Túc học đạo (với đức Thế Tôn), thọ cụ túc, trì pháp, . . . cho đến thành A la hán.

Ðức Phật nói như vậy, Bệ Ma Túc nghe lời Thế Tôn dạy, hoan hỷ vui mừng.

PHẬT NÓI KINH BỆ MA TÚC 

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 28975)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20694)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19446)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30506)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36431)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33237)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35574)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 20993)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21926)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25263)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25801)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 31270)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
(Xem: 18566)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25146)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23776)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28946)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20870)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31446)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25553)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29725)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22529)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25725)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23288)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25754)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23728)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40617)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23356)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22454)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22103)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23515)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 16972)
Con người khác với loài động vật ở chổ biết đặt vấn đề về giá trị của đời sống; sống như thế nào thì gọi là thiện là tốt hoặc ngược lại là ác là xấu?
(Xem: 23290)
“Nếu Phật tử cố ăn thịt. Tất cả thịt của mọi loài chúng sanh đều không được ăn. Luận về người ăn thịt thì mất lòng đại từ bi, dứt giống Phật tánh...
(Xem: 24319)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41111)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 18999)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20494)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27731)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38130)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 34082)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 36792)
Thiện namthiện nữ, nay các người lãnh thọ giới pháp rồi thì phải tôn kính mà vâng giữ, không được vi phạm giới pháp cần phải phụng trì.
(Xem: 24006)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29200)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60166)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27626)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68751)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24540)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 24504)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22720)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26376)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 26551)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 20826)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20067)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27556)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46445)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 53588)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23618)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21100)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 25585)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29273)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
(Xem: 189012)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi tam-bảo
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant