Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Dụ Mũi Tên

17 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 16423)
Kinh Dụ Mũi Tên


PHẬT NÓI KINH DỤ MŨI TÊN


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0094 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Mất tên người dịch phụ lục Ðông Tấn.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

---o0o--- 

 


Nghe như vầy:

Một thời Bạt Già Bà ở tại vườn ông Cấp Cô Ðộc, rừng cây ông Kỳ Ðà, thành Xá Vệ. Bấy giờ tôn giả Ma La Cưu Ma La một mình ở chỗ vắng vẻ sanh ra ý nghĩa như vầy: “Ðức Thế Tôn bỏ tà kiến, trừ tà kiến nhưng không nói: “Thế gian là hữu thường hay thế gianvô thường hay thế gianvô thường, thế gianhữu biên hay thế gian là vô biên? Mạng là thân hay mạng là khác, thân khác có mạng chung hay không có mạng chung? Cũng có, cũng không có vấn đề không có mạng chung?”. Ta không thể chấp nhận, không thể xử dụng được, không thể vui được, nếu đức Thế Tôn một mực nói về thế gian “Thế gian là hữu thường” ta sẽ theo Ngài tu phạm hạnh. Nếu Thế Tôn một mực không chịu nói “Thế gian là hữu thường” ta sẽ tranh luận với Ngài rồi bỏ đi. Cũng như vậy “Thế gian là hữu biên, thế gianvô biên, hay mạng khác thân khác, có vấn đề mạng chung hay không có vấn đề mạng chung? Có hay không có vấn đề “không có mạng chung?”. Nếu đức Thế Tôn một mực nói với ta rằng: “Chỉ có đây là chơn thật, ngoài ra là ngu si”, ta sẽ tu phạm hạnh với Ngài. Còn nếu đức Thế Tôn một mực không nói: “Ðây là chơn thật, ngoài ra là ngu si”, ta hỏi xong rồi bỏ đi”.

Bấy giờ, tôn giả Ma La Cưu Ma La sau buổi trưa đứng dậy đi đến chỗ đức Thế Tôn, đến rồi lạy dưới chân đức Thế Tôn, ngồi qua một bên. Tôn giả Ma La Cưu Ma La đã ngồi qua một bên rồi, bạch Thế Tôn rằng:

-Thưa Thế Tôn, con ở chỗ vắng vẻ, khởi lên ý nghĩ rằng: “Ðức Thế Tôn bỏ tà kiến, trừ tà kiến, không nói: “thế gian hữu thường, cho đến không có mạng chung”. Ðiều này con không muốn, con không thể chịu được, không ưa thích, nếu đức Thế Tôn một mực biết “thế gian là hữu thường” thì đức Thế Tôn cứ nói ra. Còn nếu đức Thế Tôn hoàn toàn không biết là “thế gian hữu thường” thì xin Ngài cứ nói thẳng ra là: “Ta không biết” cũng như vậy “thế gian là vô thường cho đến không có mạng chung”, nếu đức Thế Tôn hoàn toàn biết rõ thì xin hãy nói cho con rằng: “Ðây là chơn thật ngoài ra là ngu si”. Ðức Thế Tôn nên ghi nhận như vậy. Còn nếu đức Thế Tôn không biết “Ðây là chơn thật, ngoài ra là ngu si” thì Ngài cứ nói thẳng cho con rằng “Ngài không biết”.

Này Ma La Cưu Ma La, trước đây ta có từng nói với ngươi rằng: nếu ta nói “thế gian là hữu thường” thì ngươi hãy theo ta mà tu hành Phạm hạnh chăng?

-Không có, thưa Thế Tôn!

Cũng như vậy, “thế gian là vô thường, cho đến không có mạng chung”. Nếu ta nói “lời của ta là chơn Phạm hạnh chăng?

-Không có, thưa Thế Tôn!

Này Ma La Cưu Ma La, trước đây ngươi nói với ta: nếu Thế Tôn một mực cho là “thế gian là hữu thường” thì tôi sẽ theo Ngài để tu Phạm hạnh chăng?

-Không có, thưa Thế Tôn!

Cũng như vậy, “thế gian là vô thường, cho đến không có mạng chung”. Nếu đức Thế Tôn nói với tôi “Ðây là chơn thật, ngoài rangu si thì tôi sẽ theo Ngài tu học Phạm hạnh chăng?”.

-Chẳng phải vậy, thưa Thế Tôn!

-Này Ma La Cưu Ma La, ta vốn không nói với ngươi như vậy, ngươi cũng vốn không nói với ta như vậy. Ngươi là người ngu si, vô cớ tại sao lại hủy báng ta? Bấy giờ, tôn giả Ma La Cưu Ma La bị đức Phật quở trách thẳng vào mặt, không lời biện bạch, im lặng. Khắp cả mình mồ hôi toát ra, cúi mặt lặng thinh.

Khi ấy đức Thế Tôn quở trách thẳng vào mặt của Ma La Cưu Ma La xong, bảo các Tỳ kheo rằng:

-Ví như có kẻ ngu si nghĩ rằng: “Ta sẽ không theo đức Thế Tôn để tu Phạm hạnh, nếu đức Thế Tôn một mực nói: thế gian là hữu thường”. Người ngu si ấy chưa kịp biết gì cả, nửa chừng thì đã chết rồi. Cũng như vậy, đối với vấn đề “thế gian là vô thường, cho đến không có mạng chung” thì ta sẽ không theo đức Thế Tôn để tu hành Phạm hạnh. Nếu đức Thế Tôn nói với ta rằng: “Ðây là chơn thật, ngoài ra là ngu si”. Người ấy chưa biết được gì cả thì nửa chừng đã chết mất rồi.

Ví như có người bị trúng tên độc vào thân, quyến thuộc của y thương xót, muốn làm cho y được an ổn, được nhiêu ích, cấp tốc mời thầy thuốc đến nhổ mũi tên độc ra. Khi ấy người bị trúng tên độc nghĩ rằng: Ta chưa muốn nhổ tên độc ra vội ta muốn biết người bắn cung họ gì, tên gì, hình dạng ra sao? Kẻ ấy cao hay thấp, hay trung bình? Kẻ ấy đen hay trắng, thuộc dòng Sát lợi hay bà la môn, hay cư sĩ, hay thợ thuyền? Kẻ ấy ở phương Ðông, phương Tây, phương Nam hay phương Bắc? Tại sao lại lấy tên bắn vào ta? Ta chưa muốn nhổ tên độc ra vội, hãy cho ta biết cây cung làm bằng loại cây Tát la hay loại cây Ða la, hay loại cây Xí la ương quật lê?

Ta chưa muốn nhổ tên độc ra vội, hãy cho ta biết loại gân quấn cây cung làm bằng gân trâu, gân dê hay gân mèo?

Ta chưa muốn nhổ tên độc ra vội, hãy cho ta biết mũi tên làm bằng xương trắng, đen hay là nâu?

Ta chưa muốn nhổ tên độc ra vội, hãy cho ta biết dây cung làm bằng gân trâu hay gân dê hay gân mèo?

Ta chưa muốn nhổ tên độc ra vội, hãy cho ta biết mũi tên làm bằng cây Xá la hay cây tre, hay cây La nga lê?

Ta chưa muốn nhổ tên độc ra vội, hãy cho ta biết gân của cây cung ấy là gân trâu, gân dê hay gân mèo dùng để quấn nó?

Ta chưa muốn nhổ tên độc ra vội, hãy cho ta biết cái lông vũ gắn sau mũi tên là của chim Khổng tước hay của chim Thương hạc, hay của chim Thứu?

Ta chưa muốn nhổ tên độc ra vội, hãy cho ta biết sắt mà bịt đầu mũi tên là Bà ta, hay Bà la, hay Na la, hay Già la bệ?

Ta chưa muốn nhổ tên độc ra vội, điều cần yếu cho ta biết người thợ làm mũi tên sắt ấy họ gì, tên gì, hình dáng ra sao, cao thấp hay trung bình? Kẻ ấy đen hay trắng, ở phương Ðông, phương Tây, phương Nam hay phương Bắc?

Nhưng người ấy chưa kịp biết gì cả, nửa chừng thì nó đã chết mất rồi. Cũng vậy, nếu có kẻ ngu si nghĩ rằng “Ta sẽ không theo đức Thế Tôn để tu Phạm hạnh, nếu đức Thế Tôn nói với ta rằng: Ðây là chơn thật, ngoài ra là ngu si”. Người ngu si ấy chưa biết được gì, dù thế gian có hữu thường, thì nửa chừng đã chết mất rồi, vì có tà kiến này. Cũng vậy, kẻ ấy sẽ theo ta tu Phạm hạnh nếu “thế gian là vô thường, cho đến không có mạng chung”, đây là tà kiến, y cũng sẽ theo ta tu Phạm hạnh, “thế gian là hữu thường” có tà kiến này kẻ ấy không nên theo ta để tu Phạm hạnh. Cũng như vậy, “thế gian là vô thường, cho đến không có mạng chung”, có tà kiến này không nên theo ta tu Phạm hạnh. Không có tà kiến này “thế gian là hữu thường” cũng nên theo ta mà tu học Phạm hạnh. Không có tà kiến này “thế gian là vô thường, cho đến không có mạng chung”, cũng nên theo ta mà tu học Phạm hạnh. Không có tà kiến “thế gian là hữu thường” không nên theo ta mà tu học Phạm hạnh. Không có tà kiến này “Như vậy, thế gianvô thường, cho đến không có mạng chung”, không nên theo ta mà tu học Phạm hạnh.

thế gian có hữu thường đi nữa thì vẫn có sanh, già, bệnh, chết, có ưu sầu khóc lóc không vui. Như vậy, khối đại khổ ấm này tập khởi. Cũng vậy, cho dù thế gianvô thường, cho đến không có mạng chung thì vẫn có sanh, già, bệnh, chết, cho đến khối đại khổ ấm này tập khởi. Dù “thế gian có hữu thường”, điều đó ta không nói. Cũng vậy, “thế gian là vô thường, cho đến mạng chung”, điều đó ta cũng không nói. Vì sao ta lại không nói? Vì điều đó chẳng đúng nghĩa, cũng là phi pháp, chẳng phải là Phạm hạnh, không thành thần thông, không đưa đến chí đạo, không tương ưng với Niết bàn, cho nên ta không nói.

Vậy vấn đề gì ta một mực nói? Ta một mực nói đến: “Ðây là khổ”, ta một mực nói: “Ðây là khổ tập, khổ tận, trụ xứ”. Vì sao vậy? Ta một mực nói những vấn đề ấy là vì nó là nghĩa, là pháp, được thần thông, tu hành Phạm hạnh cho đến Ðẳng đạo, cùng tương ưng với Niết bàn, cho nên ta một mực nói đến. Những điều ta không nói đến thì nên bỏ đi, còn những điều ta nói đến thì nên thọ trì.

Ðức Phật nói như vậy, các Tỳ kheo nghe Thế Tôn nói xong, hoan hỷ vui mừng.

 

PHẬT NÓI KINH DỤ MŨI TÊN

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 23953)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41211)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19688)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 23974)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21741)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23292)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27498)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26554)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29309)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33177)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20180)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25761)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20903)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31301)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38553)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21425)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44242)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29814)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42188)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22131)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45736)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32103)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23947)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24377)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29245)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33909)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27677)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32118)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21058)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28841)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21562)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28055)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22058)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21421)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19489)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19457)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19829)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19235)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29170)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20607)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28273)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23647)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33163)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31832)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21363)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39612)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21543)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19367)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26369)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24811)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21750)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22373)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29126)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22551)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20467)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23510)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21229)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35307)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24541)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
(Xem: 31333)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant