Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Bát Phật Danh Hiệu

29 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 15522)
Kinh Bát Phật Danh Hiệu


Kinh Bát Phật Danh Hiệu


Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0431

Tùy Thiên Trúc Tam Tạng Xà Na Quật Đa dịch

Thích Hạnh Tuệ trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ dịch Việt

Hiệu đính: HT Thích Như Điển, Phương trượng Chùa Viên Giác, Đức Quốc

 

 

Tôi nghe như vầy.

Một thời, Đức Phật ở tại vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ cùng chúng đại Tỳ kheo 1,250 vị câu hội, lại có chúng đại thừa Bồ Tát Ha Ma Tát 10,000 người cùng câu hội.

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tônvô lượng vô số trăm ngàn vạn chúng đang vây quanh mà thuyết pháp.

Lúc bấy giờ, Tôn giả Xá Lợi Phất ở trong đại chúng, từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo vai phải, gối phải chấm đất, chấp tay hướng Phật mà bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Con có lòng nghi, nay muốn xin hỏi, kính mong Như Lai, thương xót chúng sanh vì con giải nói.”

Lúc bấy giờ, Thế Tôn bảo Xá Lợi Phất: “Này thiện nam tử, nếu có lòng nghi, tuỳ nơi ông hỏi, ta sẽ vì ông phân biệt giải nói.”

Bấy giờ, Xá Lợi Phất được Phật cho phép, hứa giải lưới nghi, vui mừng hớn hở, liền bạch Phật rằng: “Thế Tôn, có Chư Phật Thế Tôn trong mười phương hiện nay, do nguyện lực xưa mà thường vì chúng sanh, hiện đang thuyết pháp chăng? Chư Như Lai ấy có danh hiệu là gì? Nếu có thiện nam tử cùng thiện nữ nhơn muốn được trì tụng danh hiệu Chư Phật ấy, hoặc đọc, hoặc nghe, cũng như biên chép; nhờ công đức nầy liền được bất thối chuyển nơi A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, không chỗ khuyết giảm, cho đến đạo Vô thượng Chánh Chân và mau chóng thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề chăng?”

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo ngài Xá Lợi Phất: “Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử, điều ông hỏi đây thật khéo biện tài, vì làm lợi ích lớn cho vô lượng chúng sanh trong đời sau, từ bi thương xót tất cả trời người mà hỏi Như Lai ý nghĩa thâm sâu này. Cho nên, nay ông nghe kĩ, giữ gìn, khéo nhớ nghĩ lấy. Ta nay vì ông phân biệt giải nói.”

Ngài Xá Lợi Phất thưa: “Dạ, thưa Thế Tôn! Con nguyện muốn nghe.”

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Xá Lợi Phất:

“Thiện nam tử, từ đây về phương đông, trải qua một hằng hà sa thế giới có một cõi Phật tên là Nan Hàng Phục. Trong quốc độ ấy có Phật Thế Tôn hiệu là Thiện Thuyết Xưng Công Đức Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, hiện đang bây giờ vì các đại chúng thuyết vi diệu pháp.

“Lại nữa, Xá Lợi Phất, từ đây về phương đông, trải qua hai hằng hà sa thế giới có một cõi Phật tên là Vô Chướng Ngại. Trong quốc độ ấy có Phật Thế Tôn hiệu là Nhân Đà La Tướng Tràng Tinh Vương Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, hiện đang bây giờ cũng vì đại chúng thuyết vi diệu pháp.

“Lại nữa, Xá Lợi Phất, từ đây về phương đông, trải qua ba hằng hà sa thế giới có một cõi Phật tên là Ái Nhạo. Trong quốc độ ấy có Phật Thế Tôn hiệu là Phổ Quang Minh Công Đức Trang Nghiêm Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, hiện đang bây giờ cũng vì đại chúng thuyết vi diệu pháp.

“Lại nữa, Xá Lợi Phất, từ đây về phương đông, trải qua bốn hằng hà sa thế giới có một cõi Phật tên là Phổ Nhập. Trong quốc độ ấy có Phật Thế Tôn hiệu là Thiện Đấu Chiến Nan Hàng Phục Siêu Việt Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, hiện đang bây giờ cũng vì đại chúng thuyết vi diệu pháp.

“Lại nữa, Xá Lợi Phất, từ đây về phương đông, trải qua năm hằng hà sa thế giới có một cõi Phật tên là Tịnh Tụ. Trong quốc độ ấy có Phật Thế Tôn hiệu là Phổ Công Đức Minh Trang Nghiêm Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, hiện đang bây giờ cũng vì đại chúng thuyết vi diệu pháp.

“Lại nữa, Xá Lợi Phất, từ đây về phương đông, trải qua sáu hằng hà sa thế giới có một cõi Phật tên là Vô Độc Chủ. Trong quốc độ ấy có Phật Thế Tôn hiệu là Vô Ngại Dược Thụ Công Đức Xưng Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, hiện đang bây giờ cũng vì đại chúng thuyết vi diệu pháp.

“Lại nữa, Xá Lợi Phất, từ đây về phương đông, trải qua bảy hằng hà sa thế giới có một cõi Phật tên là Trắc Tắc Hương Mãn. Trong quốc độ ấy có Phật Thế Tôn hiệu là Bộ Bảo Liên Hoa Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, hiện đang bây giờ cũng vì đại chúng thuyết vi diệu pháp.

“Lại nữa, Xá Lợi Phất, từ đây về phương đông, trải qua tám hằng hà sa thế giới có một cõi Phật tên là Diệu Âm Minh. Trong quốc độ ấy có Phật Thế Tôn hiệu là Bảo Liên Hoa Thiện Trụ Sa La Thụ Vương Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, hiện đang bây giờ cũng vì đại chúng thuyết vi diệu pháp.

“Này Xá Lợi Phất, cõi Phật của các Đức Phật Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác kia thanh tịnh không nhơ, không có năm trược, cũng không có ngũ dục. Chúng sanh trong ấy không có tâm dối gian, nịnh nọt, cũng không hành dục cùng với người nữ.

“Lại nữa, Xá Lợi Phất, nếu có thiện nam tử cùng thiện nữ nhơn nghe được danh hiệu của Chư Phật Thế Tôn ấy, khi đã nghe rồi, tự mình tu hành, thọ trì đọc tụng, lại vì người khác tuyên dương nói rõ, thiện nam tử cùng thiện nữ nhơn kia nếu đoạ trong ba đường ác thì thật không có chỗ ấy, chỉ trừ ngũ nghịch, phỉ báng chánh pháp, phỉ báng thánh nhân.

“Lại nữa, Xá Lợi Phất, nếu có thiện nam tử cùng thiện nữ nhơn nghe được danh hiệu của Chư Phật Thế Tôn ấy, khi đã nghe rồi, tự mình tu hành, thọ trì đọc tụng, lại vì người khác tuyên dương nói rõ; người ấy tới khi chứng quả Bồ đề sanh ra chỗ nào cũng thường đầy đủ ngũ thông, lại được các Đà la ni, sáu căn đầy đủ không có thiếu khuyết, thường được hoan hỷ, lông thân xoay về bên phải.

“Lại nữa, Xá Lợi Phất, nếu có thiện nam tử cùng thiện nữ nhơn nghe được danh hiệu của Chư Phật Thế Tôn ấy, khi đã nghe rồi, tự mình tu hành, thọ trì đọc tụng, lại vì người khác tuyên dương nói rõ; những chúng sanh này khi ở chỗ nào, huyện quan ác tặc không thể gây hại, lửa không thể đốt, nước không thể trôi, rồng ác rắn dữ không thể làm hại; lúc đứng khi đi, sư tử, hổ lang, sài báo, dạ xoa, la sát, ác quỷ ác thần như Cưu bàn trà, cùng nhơn phi nhơn làm cho sợ hãi thì thật không thể có được, chỉ trừ tai ương đời trước.

“Lại nữa, Xá Lợi Phất, nếu có người nữ chán ghét thân nữ, nhớ nghĩ chuyên tâm, thọ trì đọc tụng danh hiệu Chư Phật Thế Tôn lại vì người khác phân biệt nói rõ; sau khi mạng chung mà còn thọ thân gái lại nữa thì thật không thể có được.

“Lại nữa, Xá Lợi Phất, nếu có thiện nam tử cùng thiện nữ nhơn trong đêm yên tĩnh tụng niệm danh hiệu Chư Phật thì chúng sanh này làm các công việc gì trong hiện đời đều chóng thành tựu, ngày càng tăng trưởng, không gặp chướng ngại.”

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn rõ nghĩa trên mà nói kệ rằng:

“Nếu có các chúng sanh

Thọ trì danh hiệu Phật

Bỏ tất cả đường ác

Mau sanh vào cõi lành.

Thường ở trước Chư Phật

Nghe được Diệu pháp âm

Chứng đạo quả Vô Thượng

Tuỳ tâm mà cúng dường.

Tụng trì danh hiệu Phật

Quá ức ngàn vạn kiếp

Tất cả những phiền não

Thành tựu quả Bồ Đề.

Nếu ai trọn bảy ngày

Hay tụng danh hiệu Phật

Liền được mắt thanh tịnh

Có thể thấy Chư Phật.

Nếu nghe danh hiệu Phật

Người ấy liền thọ trì

Tuỳ nơi chỗ thọ sanh

Thường được người kính mến.

Tướng tốt, hình đoan chánh

Sanh vào nhà phúc lạc

Tâm luôn đại hỷ xả

Thông minh không buông lung.

Như có các người nữ

Nghe danh hiệu Phật nầy

Tự tụng vì người nói

Được phước không thể lường.

Cho đến lúc mạng chung

Liền bỏ thân người nữ

Được thọ thân nam tử

Đời đời luôn lợi căn.

Tụng trì danh hiệu Phật

Trong nhiều trăm ức kiếp

Hơi miệng thường thơm tho

Giống như hương chiên đàn.

Các Chư Phật Thế Tôn

Danh hiệu như thế ấy

Ai có thể tụng trì

Giữ tâm chớ buông lung.

Tụng trì danh hiệu Phật

Cha mẹ cùng anh em

Bao gồm các quyến thuộc

Trọn không khổ chia lìa.

Tụng trì danh hiệu Phật

Tất cả ma Ba tuần

Cùng quyến thuộc hắc ám

Trọn không thể não hại.

Ác độc không thể xâm

Đao gậy cùng lửa dữ

Bọn ác tặc ô quan

Tất thảy không thương tổn.

Tụng trì danh hiệu Phật

Trong ngàn ức số kiếp

Sanh vào hoa sen báu

Đủ uy tướng thần thông.

Thường ở trong hư không

Biến khắp không chỗ lường

Thấy các Phật độ khác

Người trong ấy thanh tịnh.

Chứng đạo Vô thượng rồi

Khắp vì các chủng loại

Chư Thiên cùng loài người

Làm chỗ về nương tựa.”

Đức Phật nói kinh này xong, trưởng lão Xá Lợi Phất cùng Trời, Rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lầu la, Khẩn na la, Ma hầu la già, Nhơn và Phi nhơn v.v... tất cả đại chúng nghe Phật thuyết rồi hoan hỷ phụng hành.

Bát Phật Danh Hiệu Kinh

 

Dịch xong ngày 25/11/2013

===================

 

No. 431

八佛名號經

隋天竺三藏闍那崛多譯

如是我聞:

一時,佛在舍衛國祇樹給孤獨園,與大比丘僧千二百五十人俱;復有大乘眾菩薩摩訶薩十千人俱。

爾時世尊,與無量無數百千萬眾,前後圍遶,而為說法。

爾時,尊者舍利弗,於大眾中即從座起,偏袒右肩,右膝著地,向佛合掌,而白佛言:「世尊!我有疑心,今欲發問,惟願如來憐愍眾生,為我解說。」

爾時,世尊告舍利弗言:「善男子!隨汝所問,若有疑心,吾當為汝分別解說。」

時,舍利弗蒙佛印可,許決疑網,歡喜踊躍,即白佛言:「世尊!頗有現在十方世界諸佛世尊,往昔願力常為眾生現在說法,彼諸如來所有名號,若善男子及善女人,欲得誦持此諸佛名,若讀、若聞及以書寫,緣是功德,便於阿耨多羅三藐三菩提得不退轉,無所缺減,至於無上正真之道,速得成於阿耨多羅三藐三菩提者不?」

爾時,世尊告舍利弗言:「善哉,善哉!善男子!汝所諮問真妙辯才,為於來世無量眾生廣作利益,慈悲哀愍一切天人,能問如來如斯奧義。是故,汝今諦聽諦受,善思念之,吾當為汝分別解說。」

舍利弗言:「唯然世尊!願樂欲聞。」

爾時,世尊告舍利弗言:「善男子!東方去此過一恒河沙世界,有一佛剎名難降伏,於彼國土有佛世尊,號善說稱功德如來.至真.等正覺,於今現在為諸大眾說微妙法。

「復次,舍利弗!從此東方過二恒河沙世界,有一佛剎名無障礙,於彼國土有佛世尊,號因陀羅相幢星王如來.至真.等正覺,於今現在亦為大眾說微妙法。

「復次,舍利弗!從此東方過三恒河沙世界,有一佛剎名曰愛樂,於彼國土有佛世尊,號普光明功德莊嚴如來.至真.等正覺,於今現在亦為大眾說微妙法。

「復次,舍利弗!從此東方過四恒河沙世界,有一佛剎名曰普入,於彼國土有佛世尊,號善鬪戰難降伏超越如來.至真.等正覺,於今現在亦為大眾說微妙法。

「復次,舍利弗!從此東方過五恒河沙世界,有一佛剎名曰淨聚,於彼國土有佛世尊,號普功德明莊嚴如來.至真.等正覺,於今現在亦為大眾說微妙法。

「復次,舍利弗!從此東方過六恒河沙世界,有一佛剎名無毒主,於彼國土有佛世尊,號無礙藥樹功德稱如來.至真.等正覺,於今現在亦為大眾說微妙法。

「復次,舍利弗!從此東方過七恒河沙世界,有一佛剎名側塞香滿,於彼國土有佛世尊,號步寶蓮華如來.至真.等正覺,於今現在亦為大眾說微妙法。

「復次,舍利弗!從此東方過八恒河沙世界,有一佛剎名妙音明,於彼國土有佛世尊,號寶蓮花善住娑羅樹王如來.至真.等正覺,於今現在亦為大眾說微妙法。

「舍利弗!是等諸佛如來.至真.等正覺,如是佛剎清淨無穢,無有五濁,復無五欲,其中眾生無有諂曲虛偽之心,亦無欲行及以女人。

「復次,舍利弗!若善男子及善女人,得聞彼等諸佛世尊如是名號,既得聞已能自受持讀誦修行,復為他人宣揚顯說,彼善男子及善女人,若墮三惡道者無有是處;惟除五逆、誹謗正法及謗聖人。

「復次,舍利弗!若善男子、善女人,得聞彼等諸佛世尊如是名號,既得聞已能自受持讀誦修行,復為他人宣揚顯說,如是之人乃至菩提,於其中間生生之處常具五通,兼復逮得諸陀羅尼,六根完具無諸殘缺,常得歡喜身毛右旋。

「復次,舍利弗!若善男子及善女人,得聞彼等諸佛世尊如是名號,既得聞已能自受持讀誦修行,復為他人宣揚顯說,彼等眾生所在之處,縣官、惡賊不能得便,火不能焚、水不能漂,惡龍惡蛇不能毒害;若行若住,師子、虎狼、熊羆、豺豹,夜叉、羅剎、諸惡鬼神、鳩槃荼等及人非人,能作驚惶無有是處,惟除宿殃。

「復次,舍利弗!若有女人,能厭其身,繫念專心,受持讀誦如是世尊諸佛名號,復為他人分別顯說,壽終之後,更復受於女人身者,無有是處。

「復次,舍利弗!若有善男子、善女人,於靜夜中能誦如是諸佛名號,是等眾生,於現世間所作功業皆速成就,日日增長,無諸障礙。」

爾時,世尊欲重明此義,而說偈言:

「若有諸眾生, 能持是佛名,
悉捨諸惡道, 速生於善處。
常在諸佛前, 恒聞說妙法,
既覩無上尊, 隨心而供養。
誦持佛名故, 超億千萬劫,
一切諸煩惱, 疾成得菩提。
若人滿七日, 能誦是佛名,
即得清淨眼, 便能見諸佛。
若有聞佛名, 即能誦持者,
隨其所生處, 常為他所敬。
相好形端正, 常生福樂家,
喜心行大捨, 聰明不放逸。
若有諸女人, 聞此佛名故,
自誦為他說, 其福不可量,
於此壽終已, 必捨女人報,
得受丈夫身, 生生常利根。
誦持佛名故, 多百億劫中,
口氣常芬馥, 恒如栴檀香。
彼等諸大仙, 如是諸名字,
若能誦持者, 細心不放逸。
誦持佛名故, 父母及兄弟,
并餘諸眷屬, 終無異苦惱。
誦持佛名故, 一切魔波旬,
黑闇眾眷屬, 終不能障礙。
惡毒不能害, 刀杖及火等,
縣官惡賊盜, 一切不能傷。
誦持佛名故, 千億諸劫中,
常生寶蓮華, 威相神通具;
常在虛空中, 遍不思議剎,
觀諸異佛土, 剎中清淨者。
證無上道已, 普為諸雜類,
諸天及世人, 能作歸依處。」

佛說是經已,長老舍利弗及天、龍、夜叉、乾闥婆、阿修羅、迦樓羅、緊那羅、摩睺羅伽、人非人等,一切大眾,聞佛所說,歡喜奉行。

八佛名號經

==============

【經文資訊】大正藏第 14 冊 No. 0431 八佛名號經
【版本記錄】CBETA 電子佛典 Rev. 1.11 (UTF8),完成日期:2009/04/23
【編輯說明】本資料庫由中華電子佛典協會(CBETA)依大正藏所編輯
【原始資料】蕭鎮國大德提供,維習安大德提供之高麗藏 CD 經文,閻學新大德輸入/Gamblers 大德校對,北美某大德提供,Jasmine 提供新式標點
【其他事項】本資料庫可自由免費流通,詳細內容請參閱【中華電子佛典協會資料庫版權宣告】

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 27125)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21745)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22215)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23595)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20390)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20035)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21921)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24718)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18954)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24695)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30946)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23955)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27746)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26492)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21280)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23196)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38085)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18796)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18418)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19922)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19011)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23124)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23860)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22772)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22888)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29551)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20615)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18683)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15824)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18818)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19632)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20134)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19925)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18096)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22896)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34147)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16403)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16902)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39178)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26020)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20077)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18807)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24032)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29084)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22895)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30913)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 20995)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26831)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20651)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26228)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23308)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19808)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24632)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 29974)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20197)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20388)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15128)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15816)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23844)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
(Xem: 19820)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant