Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Một Trăm Ngàn Bài Tụng Của Kinh Đại Tập Bồ Tát Địa Tạng Hỏi Phật Về Pháp Thân

04 Tháng Mười Hai 201300:00(Xem: 14681)
Một Trăm Ngàn Bài Tụng Của Kinh Đại Tập Bồ Tát Địa Tạng Hỏi Phật Về Pháp Thân

 

MỘT TRĂM NGÀN BÀI TỤNG CỦA KINH ÐẠI TẬP

BỒ TÁT ÐỊA TẠNG HỎI PHẬT VỀ PHÁP THÂN.


Đại Chánh Tân Tu, Bộ Đại Tập, số 0413

Nguyên tác: [1]

Hán dịch: Khai Phủ Nghi Ðồng Tam Ty, đặc Tấn Hồng Lô Khanh Ðại Hưng tự, Ðại Tam Tạng Sa môn Bất Không.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

---o0o---


Quy mạng lệ pháp thân

Ở giữa các hữu tình

Vì chúng không biến tri

Mới luân hồi Tam hữu

Mê tánh liền sanh tử

Tịnh thời cũng như xưa

Thanh tịnhNiết Bàn

Cũng chính là pháp thân

Thí như sữa xen tạp

Không thể thành Ðề hồ

Như phiền não xen tạp

Không thể thấy pháp giới

Thí như sữa lọc sạch

Tô tinh diệu không

Như thanh tịnh phiền não

Pháp giới rất thanh tịnh

Như đèn để trong bình

Aùnh sáng làm sao có?

Như trong bình phiền não

Pháp giới không chiếu sáng

Ðể ngọn đèn một bên

Cái bình có lỗ hỏng

Do để đèn một bên

Aùnh sáng chiếu ra ngoài

Dùng chày Tam ma địa

Ðập bể bình phiền não

Ðầy khắp cả hư không

Aùnh sáng chiếu tất cả

Pháp giới cũng không sanh

Cũng không từng hoại diệt

Tất cả thời không nhiễm

Ðầu, giữa thường thanh tịnh

Thí như phệ lưu ly

Lúc nào cũng rất sáng

Hang đá vì che tối

Aùnh sáng không chiếu diệu

Như vậy, phiền não che

Pháp giới diệu thanh tịnh

Không chiếu nơi sanh tử

Thì Niết Bàn rực sáng

Hữu tánh nếu có công

Thì thấy được vàng thiệt

Vô tánh nếu có công

Khổ mà không kết quả

Như trấu phủ lên trên

Không thể gọi là gạo

Phiền não phủ lên trên

Cũng không gọi là Phật

Nếu bỏ được vỏ trấu

Rõ ràng là gạo trắng

Xa lìa được phiền não

Pháp thân được hiển hiện

Thế gian lấy thí dụ

Cây chuối không chắc thật

Mà có quả chơn thật

Thực vị như cam lồ

Như sanh tử không thật

Lưu chuyển biển phiền não

Quả ấy chính thể Phật

Thí cam lồ hữu thí

Như vậy với các loại

In tuồng sanh ra quả

Không chủng cũng không quả

Kẻ trí quyết không tin

Chủng tử sanh ra tánh

Chỗ nương của các pháp

Thứ lớp nếu thanh tịnh

Ðạt được quả vị Phật

Nhật nguyệt không cấu uế

Vì năm thứ ngăn che

Mây, sương và khói thảy

Tay-la-hầu và bụi

Như vậy tâm chiếu sáng

Ngăn che bởi năm cấu

Tham ái, sân nhuế, thùy (miên)

Trạo cửnghi hoặc

Như lấy lửa giặt áo

Với các dơ bất tịnh

Nếu đôi vào trong lửa

Cháy dơ không cháy áo

Không loại, các khế kinh

Ðều do Như Lai nói

Thí như đất dưới nước

Thường trụthanh tịnh

Trí ẩn nơi phiền não

Thanh tịnh cũng như vậy

Pháp giới cũng phi ngã

Chẳng nữ cũng chẳng nam

Xa lìa tất cả chấp

Vì sao phân biệt ngã

Các pháp không trói buộc

Nam nữ cũng không có

Ðiều phục kẻ tham mù

Thị hiện tướng nam nữ

Tánh vô thường, khổ, không

Tâm tịnh lự có ba

Tâm tịnh lự tối thắng

Các pháp không tự tánh

Như con trong bào thai

Tuy có mà không hiện

Phân biệt có bốn loại

Ðã sanh bởi đại tạo

Ðại nguyện tất cả Phật

Vô sở hữu, vô tướng

Nhờ tự giác tương ưng

Tánh thường pháp chư Phật

Như nói thỏ có sừng

Phân biệt mà chẳng có

Như vậy tất cả pháp

Phân biệt không thể được

Phân tích như bụi nhỏ

Phân biệt không thể được

Như đầu, cuối cũng vậy.

Trí làm sao phân biệt

Như vậy hòa hợp sanh

Hòa hợp cũng hoại diệt

Một pháp tự chẳng sanh

Vì sao ngu phân biệt?

Dụ hai sừng thỏ, trâu

Ðó gọi tướng biến kế

An trụ nơi trung đạo

Như pháp tánh thiện thệ

Như trăng và tinh tú

Hiện trong hủ nước sạch

Aûnh tượng mới hiển hiện

Như vậy tướng viên thành

Ðầu, giữa đều là thiện

Thường hằng không dối láo

Không có năm thứ ngã

Sao gọi ngã phân biệt?

Thí như khi nấu nước

Nên gọi là nước nóng

Vậy thì khi để lạnh

Thì gọi là nước lạnh

Lưới phiền não che lấp

Thì gọi đó là tâm

Nếu lìa bỏ phiền não

Thì gọi là đẳng giác

Nhãn thức duyên nơi sắc

Aûnh tượng rất thanh tịnh

Không sanh cũng không diệt

Pháp giới không hình tướng

Nhĩ thức duyên nơi tiếng

Thanh tịnh thức ba thứ

Nhờ tự phần riêng nghe

Pháp giới không hình tướng

Mũi theo hương mà ngửi

Không sắc cũng không hình

Tỷ thứcchơn như

Pháp giới nên phân biệt

Thiệt giới tự tánh không

Tánh vị giới xa lìa

Không y cũng không thức

tự tánh pháp giới

Tự tánh thân thanh tịnh

Ðã xúc tưởng hòa hiệp

Xa lìa chỗ sở duyên

Ta nói là pháp giới

Các pháp ý là lớn

Lìa phân biệt năng sở

Pháp giới vô tự tánh

Pháp giớiphân biệt

Hay thấy, nghe và ngửi

Là vị và xúc chạm

Pháp Du Già nên biết

Như vậy tướng viên thành

Nhãn, nhỉ cùng với tỷ

Thiệt, thân và mạt na

Sáu xứ đều thanh tịnh

Tướng của nó như vậy

Tâm thấy có hai loại

Thế gian, xuất thế gian

Chấp ngã nên lưu chuyển

Tự giácchơn như

Vô tậnNiết Bàn

Nếu hết tham và si

Biết nó là Phật thể

Chỗ hữu tình qui y

Tất cả với thân này

Có trí hay không trí

Trói buộc, tự phân biệt

Nhờ ngộ được giải thoát

Bồ đề không gần xa

Không đến cũng không đi

Hoại diệthiển hiện

Với lưới phiền não này

Nói các loại khế kinh

Ðứng trên tự tư duy

Ðèn trí huệ chiếu sáng

Liền được tối thắng tịch

Bồ đề không nghĩ xa

Cũng không có nghĩ gần

ảnh tượng sáu cảnh

Ðều do như vậy biết

Như nước hòa với sữa

Ðồng ở trong một bình

Ngỗng (chúa) uống hết sữa

Chỉ còn nước trong bình

Như vậy trộn phiền não

Và trí ở trong bình

Bậc Du Già uống trí

Vứt bỏ các phiền não

Như vậy ngã, ngã chấp

Cho đến sở thủ chấp

Nếu thấy hai vô ngã

Có chủng mà hoại diệt

Phật Bát Niết Bàn

Thường thanh tịnh vô cấu

Phàm phu phân biệt hai

Kinh Du Già vô nhị

Thì tất cả là khó

Lấy giới nhiếp hữu tình

Nhẫn nhục tất cả tổn

Cõi tăng thêm làm ba

Ðối các pháp tinh tấn

Tâm tịnh lự gia hạnh

Thường tập sự trí tuệ

Lại được tăng Bồ đề

Phương tiện cùng với huệ

Nhờ nguyện đều thanh tịnh

Nhờ lực diệu kiên trí

Cõi thêm làm bốn loại

“Không nên lạy Bồ Tát”

Không sanh ra pháp thân

Không ưa loại cây mía

Lại muốn ăn đường phèn

Nếu bỏ loại cây mía

Làm gì có đường phèn?

Nếu gìn giữ cây mía

Ba thứ mới được sanh

Ðường, một nửa đường phèn

Trong đó mới sanh ra

Nếu giữ tâm Bồ đề

Ba thứ mới sanh ra

Như gìn giữ mạ, lúa

Nông phu nhờ đó sống

Như hạnh thắng giải trước

Như Lai bảo phải giữ

Như ngàn rằm trăng sáng

Thấy rõ mặt trăng tròn

Như vậy Thắng giải hạnh

Aûnh hiện hình tướng Phật

Cũng như trăng mới mọc

Tăng từng phút, từng phút

Như vậy người nhập địa

Từng niệm thấy tăng ích

Như trăng sáng ngày rằm

Mặt trăng mới tròn trịa

Như vậy cứu cánh địa

Pháp thân mới được sanh

Thắng giải kia kiên cố

Thường đối với Phật pháp

Hay phát tâm như vậy

Ðược sự bất thối chuyển

Nhiễm y được chuyển y

Ðược gọi là Tịnh y

Nhờ một phần giác ngộ

Gọi là Cực-Hỷ-Ðịa

Luôn luôn bị nhiễm ô

Dục ... các thứ cấu uế

Không cấu, được thanh tịnh

Gọi là Ly cấu địa

Hoại diệt lưới phiền não

Chiếu diệu được Ly cấu

Lìa vô lượng tối tăm

Gọi là Phát Quang Ðịa

Thanh tịnh thường chiếu sáng

Xa lìa Thế kiết tường

Chung quanh trí huệ chiếu

Gọi là Diệm Huệ Ðịa

Tất cả kỹ nghệ sáng

Trang sức các tỉnh lự

Nan thắng trị phiền não

Ðược thắng nan thắng địa

Với ba thứ Bồ đề

Nhiếp thọ khiến thành tựu

Sanh diệt rất thậm thâm

Gọi là Hiện tiền địa

Du hý nơi lưới sáng

Biến khắp trời Ðế Thích

Vượt qua dòng thác dục

Gọi là Viễn hành địa

Tất cả Phật gia trì

Sáp nhập vào biển trí

Tự tại vô công dụng

Bất động giữa sứ ma

Với các vô ngại giải

Du Già đến bờ kia

Với thuyết pháp đàm luận

Gọi là Thiện huệ địa

Thân nhờ trí mà thành

Như hư không vô cấu

Chư Phật đều hộ trì

Cùng khắp như mây pháp

Chỗ nương tựa Phật pháp

Hạnh quả đều gìn giữ

Sở y đều được chuyển

Nên gọi là pháp thân

Lìa Bất tư nghị luận

Và lìa lưu chuyển tập

Ngươi không nghĩ ý nghĩ

Làm sao mà được biết

Vượt qua các ngôn ngữ

Tất cả căn, phi cảnh

Yù thức đã nắm giữ

Như sở hữu bản ngã

Thứ lớp mà tích tập

Phật tử đại danh xưng

Ðều dùng trí Pháp Vân

Vi tế thấy pháp tánh

Khi nào rửa sạch tâm

Vượt qua biển sanh tử

Ngài dùng hoa sen lớn

Làm tòa lớn an tọa

Vô lượng lá báu sáng

Aùnh sáng báu là đài

Vô lượng ức hoa sen

Cùng khắp là quyến thuộc

Trước dùng mười thứ lực

Dùng bốn loại vô úy

Bất cọng pháp các Phật

Ðại tự tại mà ngồi

Tập hợp tất cả thiện

Phước trí làm lương thực

Trăng tròn giữa các sao

Cùng khắp mà vây quanh

Mới dùng tay Phật nhật

Lấy bảo quang trong sạch

Chiếu trên đầu trưởng tử

Khắp nơi đều thấm nhuần

Ngài trụ Ðại Du già

Ðều thấy bằng thiên nhãn

Vô minh quấy rối đời

Aùc tập khổ, sợ hãi

Giống như ánh sắc vàng

Từ ánh sáng Du già

Kẻ vô tri che lấp

Ðược mở cửa vô minh

Nhờ phước trí chiêu cảm

Nhờ giữ định không chấp

Từ duyên mà viên tịch

Tâm đều được biến hóa

Các pháp không tự tánh

Tự tánh nơi cảnh giới

Bồ Tát vương khéo quán

Pháp thân diệu không

Ðều nhờ thân trong sạch

An trụ nơi biển trí

Liều làm lợi chúng sanh

Như ngọc Ma Ni khéo

Tất cả bậc Du Già

Ðại Du già tự tại

Bóng Phật đều biến hóa

Biến khắp mà lưu xuất

Hoặc người có tám tay

Ba mắt thân bừng sáng

Họ nhờ Du già vương

Biến khắp mà lưu xuất

Ðều nhờ tay Từ bi

Thắng hỷ, nắm cây cung

Bắn bằng tên Bát nhã

Ðoạn hết tế vô minh

Dùng đại lực tiến lên

Nắm giữ gậy trí huệ

Tất cả giống vô minh

Thảy đều bị dập nát

Các hữu tình sức lực

Kim Cang thân rực rỡ

điều phục hữu tình

Phải dùng Kim Cang thủ

Tự mình là tác giả

Thị hiện các thứ tập

Dạy dỗ đúng giáo lý

Biến làm vua bình đẳng

Ðói khát thiêu đốt thân

Thí như các ẩm thực

Thường khổ vì bệnh tật

Thí làm Y vương giỏi

Ma vương mong não loạn

Ma nữ làm mê hoặc

Bồ Tát làm thân hữu

Hay thí chỗ Bồ đề

Như mặt trời, mặt trăng

Aùnh sáng ai cũng thích

Thông chảy như điện sáng

Chiếu diệu vô số cõi

Do nhờ một ngọn đèn

Chiếu khắp nơi đều sáng

Nếu một đèn bị tắt

Tất cả đèn tắt theo

Như vậy Phật dị thục

Thị hiện các ánh sáng

Một Phật hiện Niết bàn

Các Phật cũng qui tịch

Một vị không diệt độ

Trời sáng làm sao tối

Thường hiện sự sanh diệt

Thường hiện biển sát độ

Kẻ vô trí đời tối

Hay tịnh trí huệ nhãn

Ði đến vô số cõi

Xót thương các hữu tình

Ngài đều không mệt mỏi

Nhờ áo giáp đại từ

Với tất cả thần túc

Du già đến bỉ ngạn

Ðều quán thời, phi thời

Khiến họ được lưu chuyển

Cứng rắn với dua nịnh

Tức thời liền vứt bỏ

Ðộ vô lượng hữu tình

Tức thì khiến thanh tịnh

Vô lượng Phật biến hóa

Tức thì được đổi dạng

Với trong biển ba cõi

Giăng tấm lưới điều phục

Co duỗi lưới diệu pháp

Phổ biến khiến thành thục

Nhờ dùng lưới điều phục

Khắp nơi được thành thục

Khắp nơi được giác ngộ

Kẻ phiêu lưu trong đó

Như hàng ngàn hữu tình

Ðã độ thoát tất cả

Ðộ rồi khiến giác ngộ

Không nghi ngờ diệu pháp

Chuông diệu pháp Thế Tôn

Khiến tất cả được nghe

Nhờ diệu pháp chấn động

Trừ sạch bụi phiền não

Người vô minh, tăng thượng

Khiến thanh tịnh tức khắc

Dùng sức sáng mặt trời

Chiếu phá sự mù tối

Vì theo phiền não tối

Và tội khác của thân

Khiến họ làm lợi ích

Dần dần được thanh tịnh

Nơi nơi người hiện hóa

An trụ như thủy nguyệt

Phiền não khuấy nhiễu tâm

Không thấy được Như Lai

Như ngạ quỷ ở biển

Chỉ thấy toàn biển khô

Như vậy kẻ ít phước

Không thể thấy được Phật

Kẻ hữu tình ít phước

Làm sao thành Như Lai?!

Như kẻ mù lúc sanh

Ngồi trên đống châu báu

Làm sao mà thấy được?!

Pháp thân bậc vô thượng

Thân Nhật quang vô số

Lưới ánh sáng vây quanh

Chư thiên ít thiện phước

Nên không thể thấy được

Bậc trời lớn ở trên

Làm sao mà thấy được?

Sắc ngài không thể thấy

Chư thiên lìa phiền não

Thiên, Tu la, Phạm thảy

Vì sao còn chút huệ

Nhưng nhờ oai lực Phật

thanh tịnh tự tâm

Mới thấy được thân Phật

Ðược tất cả lợi ích

Hữu tình phước đoan nghiêm

Phật đứng trước người đó

Hào quang chiếu diệu thân

Ba mươi hai tướng tốt

Bậc trượng phu như vậy

Thầy giống như biển lớn

Không cần nhiều thời gian

Liền được trí như biển

Sắc thân của Thế Tôn

An trụ trong nhiều kiếp

Ðiều phục kẻ khó điều

Dẫn đến giới các loại

Ðại Du già sống lâu

Vì sao lại chết yểu

Với vô số người khác

Thị hiện tuổi tăng giảm

Vô lượng vô số kiếp

Từng mạng sống tăng trưởng

Nhân duyên vô cùng tận

Ðạt được quả vô tận.

Nếu ai tương ưng hiểu lý này

Lấy huệ phân tích ngay nơi thân

Kẻ ấy sanh nơi Tịnh Liên Hoa

Nghe pháp Phật nói vô lượng thọ.

 

MỘT TRĂM NGÀN BÀI TỤNG CỦA KINH ÐẠI TẬP

BỒ TÁT ÐỊA TẠNG HỎI PHẬT VỀ PHÁP THÂN.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 27177)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21766)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22230)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23602)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20430)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20054)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21948)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24746)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18988)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24759)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30974)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23985)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27763)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26510)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21311)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23224)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38126)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18799)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18438)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19975)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19043)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23149)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23876)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22791)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22907)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29569)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20636)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18709)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15847)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18856)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19675)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20152)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19952)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18117)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22929)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34166)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16418)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16917)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39243)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26064)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20097)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18850)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24059)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29137)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22900)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30952)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21008)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26850)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20677)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26266)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23323)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19817)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24673)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30033)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20221)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20403)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15145)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15829)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23881)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
(Xem: 19849)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant