Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Một Trăm Ngàn Bài Tụng Của Kinh Đại Tập Bồ Tát Địa Tạng Hỏi Phật Về Pháp Thân

04 Tháng Mười Hai 201300:00(Xem: 14613)
Một Trăm Ngàn Bài Tụng Của Kinh Đại Tập Bồ Tát Địa Tạng Hỏi Phật Về Pháp Thân

 

MỘT TRĂM NGÀN BÀI TỤNG CỦA KINH ÐẠI TẬP

BỒ TÁT ÐỊA TẠNG HỎI PHẬT VỀ PHÁP THÂN.


Đại Chánh Tân Tu, Bộ Đại Tập, số 0413

Nguyên tác: [1]

Hán dịch: Khai Phủ Nghi Ðồng Tam Ty, đặc Tấn Hồng Lô Khanh Ðại Hưng tự, Ðại Tam Tạng Sa môn Bất Không.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

---o0o---


Quy mạng lệ pháp thân

Ở giữa các hữu tình

Vì chúng không biến tri

Mới luân hồi Tam hữu

Mê tánh liền sanh tử

Tịnh thời cũng như xưa

Thanh tịnhNiết Bàn

Cũng chính là pháp thân

Thí như sữa xen tạp

Không thể thành Ðề hồ

Như phiền não xen tạp

Không thể thấy pháp giới

Thí như sữa lọc sạch

Tô tinh diệu không

Như thanh tịnh phiền não

Pháp giới rất thanh tịnh

Như đèn để trong bình

Aùnh sáng làm sao có?

Như trong bình phiền não

Pháp giới không chiếu sáng

Ðể ngọn đèn một bên

Cái bình có lỗ hỏng

Do để đèn một bên

Aùnh sáng chiếu ra ngoài

Dùng chày Tam ma địa

Ðập bể bình phiền não

Ðầy khắp cả hư không

Aùnh sáng chiếu tất cả

Pháp giới cũng không sanh

Cũng không từng hoại diệt

Tất cả thời không nhiễm

Ðầu, giữa thường thanh tịnh

Thí như phệ lưu ly

Lúc nào cũng rất sáng

Hang đá vì che tối

Aùnh sáng không chiếu diệu

Như vậy, phiền não che

Pháp giới diệu thanh tịnh

Không chiếu nơi sanh tử

Thì Niết Bàn rực sáng

Hữu tánh nếu có công

Thì thấy được vàng thiệt

Vô tánh nếu có công

Khổ mà không kết quả

Như trấu phủ lên trên

Không thể gọi là gạo

Phiền não phủ lên trên

Cũng không gọi là Phật

Nếu bỏ được vỏ trấu

Rõ ràng là gạo trắng

Xa lìa được phiền não

Pháp thân được hiển hiện

Thế gian lấy thí dụ

Cây chuối không chắc thật

Mà có quả chơn thật

Thực vị như cam lồ

Như sanh tử không thật

Lưu chuyển biển phiền não

Quả ấy chính thể Phật

Thí cam lồ hữu thí

Như vậy với các loại

In tuồng sanh ra quả

Không chủng cũng không quả

Kẻ trí quyết không tin

Chủng tử sanh ra tánh

Chỗ nương của các pháp

Thứ lớp nếu thanh tịnh

Ðạt được quả vị Phật

Nhật nguyệt không cấu uế

Vì năm thứ ngăn che

Mây, sương và khói thảy

Tay-la-hầu và bụi

Như vậy tâm chiếu sáng

Ngăn che bởi năm cấu

Tham ái, sân nhuế, thùy (miên)

Trạo cửnghi hoặc

Như lấy lửa giặt áo

Với các dơ bất tịnh

Nếu đôi vào trong lửa

Cháy dơ không cháy áo

Không loại, các khế kinh

Ðều do Như Lai nói

Thí như đất dưới nước

Thường trụthanh tịnh

Trí ẩn nơi phiền não

Thanh tịnh cũng như vậy

Pháp giới cũng phi ngã

Chẳng nữ cũng chẳng nam

Xa lìa tất cả chấp

Vì sao phân biệt ngã

Các pháp không trói buộc

Nam nữ cũng không có

Ðiều phục kẻ tham mù

Thị hiện tướng nam nữ

Tánh vô thường, khổ, không

Tâm tịnh lự có ba

Tâm tịnh lự tối thắng

Các pháp không tự tánh

Như con trong bào thai

Tuy có mà không hiện

Phân biệt có bốn loại

Ðã sanh bởi đại tạo

Ðại nguyện tất cả Phật

Vô sở hữu, vô tướng

Nhờ tự giác tương ưng

Tánh thường pháp chư Phật

Như nói thỏ có sừng

Phân biệt mà chẳng có

Như vậy tất cả pháp

Phân biệt không thể được

Phân tích như bụi nhỏ

Phân biệt không thể được

Như đầu, cuối cũng vậy.

Trí làm sao phân biệt

Như vậy hòa hợp sanh

Hòa hợp cũng hoại diệt

Một pháp tự chẳng sanh

Vì sao ngu phân biệt?

Dụ hai sừng thỏ, trâu

Ðó gọi tướng biến kế

An trụ nơi trung đạo

Như pháp tánh thiện thệ

Như trăng và tinh tú

Hiện trong hủ nước sạch

Aûnh tượng mới hiển hiện

Như vậy tướng viên thành

Ðầu, giữa đều là thiện

Thường hằng không dối láo

Không có năm thứ ngã

Sao gọi ngã phân biệt?

Thí như khi nấu nước

Nên gọi là nước nóng

Vậy thì khi để lạnh

Thì gọi là nước lạnh

Lưới phiền não che lấp

Thì gọi đó là tâm

Nếu lìa bỏ phiền não

Thì gọi là đẳng giác

Nhãn thức duyên nơi sắc

Aûnh tượng rất thanh tịnh

Không sanh cũng không diệt

Pháp giới không hình tướng

Nhĩ thức duyên nơi tiếng

Thanh tịnh thức ba thứ

Nhờ tự phần riêng nghe

Pháp giới không hình tướng

Mũi theo hương mà ngửi

Không sắc cũng không hình

Tỷ thứcchơn như

Pháp giới nên phân biệt

Thiệt giới tự tánh không

Tánh vị giới xa lìa

Không y cũng không thức

tự tánh pháp giới

Tự tánh thân thanh tịnh

Ðã xúc tưởng hòa hiệp

Xa lìa chỗ sở duyên

Ta nói là pháp giới

Các pháp ý là lớn

Lìa phân biệt năng sở

Pháp giới vô tự tánh

Pháp giớiphân biệt

Hay thấy, nghe và ngửi

Là vị và xúc chạm

Pháp Du Già nên biết

Như vậy tướng viên thành

Nhãn, nhỉ cùng với tỷ

Thiệt, thân và mạt na

Sáu xứ đều thanh tịnh

Tướng của nó như vậy

Tâm thấy có hai loại

Thế gian, xuất thế gian

Chấp ngã nên lưu chuyển

Tự giácchơn như

Vô tậnNiết Bàn

Nếu hết tham và si

Biết nó là Phật thể

Chỗ hữu tình qui y

Tất cả với thân này

Có trí hay không trí

Trói buộc, tự phân biệt

Nhờ ngộ được giải thoát

Bồ đề không gần xa

Không đến cũng không đi

Hoại diệthiển hiện

Với lưới phiền não này

Nói các loại khế kinh

Ðứng trên tự tư duy

Ðèn trí huệ chiếu sáng

Liền được tối thắng tịch

Bồ đề không nghĩ xa

Cũng không có nghĩ gần

ảnh tượng sáu cảnh

Ðều do như vậy biết

Như nước hòa với sữa

Ðồng ở trong một bình

Ngỗng (chúa) uống hết sữa

Chỉ còn nước trong bình

Như vậy trộn phiền não

Và trí ở trong bình

Bậc Du Già uống trí

Vứt bỏ các phiền não

Như vậy ngã, ngã chấp

Cho đến sở thủ chấp

Nếu thấy hai vô ngã

Có chủng mà hoại diệt

Phật Bát Niết Bàn

Thường thanh tịnh vô cấu

Phàm phu phân biệt hai

Kinh Du Già vô nhị

Thì tất cả là khó

Lấy giới nhiếp hữu tình

Nhẫn nhục tất cả tổn

Cõi tăng thêm làm ba

Ðối các pháp tinh tấn

Tâm tịnh lự gia hạnh

Thường tập sự trí tuệ

Lại được tăng Bồ đề

Phương tiện cùng với huệ

Nhờ nguyện đều thanh tịnh

Nhờ lực diệu kiên trí

Cõi thêm làm bốn loại

“Không nên lạy Bồ Tát”

Không sanh ra pháp thân

Không ưa loại cây mía

Lại muốn ăn đường phèn

Nếu bỏ loại cây mía

Làm gì có đường phèn?

Nếu gìn giữ cây mía

Ba thứ mới được sanh

Ðường, một nửa đường phèn

Trong đó mới sanh ra

Nếu giữ tâm Bồ đề

Ba thứ mới sanh ra

Như gìn giữ mạ, lúa

Nông phu nhờ đó sống

Như hạnh thắng giải trước

Như Lai bảo phải giữ

Như ngàn rằm trăng sáng

Thấy rõ mặt trăng tròn

Như vậy Thắng giải hạnh

Aûnh hiện hình tướng Phật

Cũng như trăng mới mọc

Tăng từng phút, từng phút

Như vậy người nhập địa

Từng niệm thấy tăng ích

Như trăng sáng ngày rằm

Mặt trăng mới tròn trịa

Như vậy cứu cánh địa

Pháp thân mới được sanh

Thắng giải kia kiên cố

Thường đối với Phật pháp

Hay phát tâm như vậy

Ðược sự bất thối chuyển

Nhiễm y được chuyển y

Ðược gọi là Tịnh y

Nhờ một phần giác ngộ

Gọi là Cực-Hỷ-Ðịa

Luôn luôn bị nhiễm ô

Dục ... các thứ cấu uế

Không cấu, được thanh tịnh

Gọi là Ly cấu địa

Hoại diệt lưới phiền não

Chiếu diệu được Ly cấu

Lìa vô lượng tối tăm

Gọi là Phát Quang Ðịa

Thanh tịnh thường chiếu sáng

Xa lìa Thế kiết tường

Chung quanh trí huệ chiếu

Gọi là Diệm Huệ Ðịa

Tất cả kỹ nghệ sáng

Trang sức các tỉnh lự

Nan thắng trị phiền não

Ðược thắng nan thắng địa

Với ba thứ Bồ đề

Nhiếp thọ khiến thành tựu

Sanh diệt rất thậm thâm

Gọi là Hiện tiền địa

Du hý nơi lưới sáng

Biến khắp trời Ðế Thích

Vượt qua dòng thác dục

Gọi là Viễn hành địa

Tất cả Phật gia trì

Sáp nhập vào biển trí

Tự tại vô công dụng

Bất động giữa sứ ma

Với các vô ngại giải

Du Già đến bờ kia

Với thuyết pháp đàm luận

Gọi là Thiện huệ địa

Thân nhờ trí mà thành

Như hư không vô cấu

Chư Phật đều hộ trì

Cùng khắp như mây pháp

Chỗ nương tựa Phật pháp

Hạnh quả đều gìn giữ

Sở y đều được chuyển

Nên gọi là pháp thân

Lìa Bất tư nghị luận

Và lìa lưu chuyển tập

Ngươi không nghĩ ý nghĩ

Làm sao mà được biết

Vượt qua các ngôn ngữ

Tất cả căn, phi cảnh

Yù thức đã nắm giữ

Như sở hữu bản ngã

Thứ lớp mà tích tập

Phật tử đại danh xưng

Ðều dùng trí Pháp Vân

Vi tế thấy pháp tánh

Khi nào rửa sạch tâm

Vượt qua biển sanh tử

Ngài dùng hoa sen lớn

Làm tòa lớn an tọa

Vô lượng lá báu sáng

Aùnh sáng báu là đài

Vô lượng ức hoa sen

Cùng khắp là quyến thuộc

Trước dùng mười thứ lực

Dùng bốn loại vô úy

Bất cọng pháp các Phật

Ðại tự tại mà ngồi

Tập hợp tất cả thiện

Phước trí làm lương thực

Trăng tròn giữa các sao

Cùng khắp mà vây quanh

Mới dùng tay Phật nhật

Lấy bảo quang trong sạch

Chiếu trên đầu trưởng tử

Khắp nơi đều thấm nhuần

Ngài trụ Ðại Du già

Ðều thấy bằng thiên nhãn

Vô minh quấy rối đời

Aùc tập khổ, sợ hãi

Giống như ánh sắc vàng

Từ ánh sáng Du già

Kẻ vô tri che lấp

Ðược mở cửa vô minh

Nhờ phước trí chiêu cảm

Nhờ giữ định không chấp

Từ duyên mà viên tịch

Tâm đều được biến hóa

Các pháp không tự tánh

Tự tánh nơi cảnh giới

Bồ Tát vương khéo quán

Pháp thân diệu không

Ðều nhờ thân trong sạch

An trụ nơi biển trí

Liều làm lợi chúng sanh

Như ngọc Ma Ni khéo

Tất cả bậc Du Già

Ðại Du già tự tại

Bóng Phật đều biến hóa

Biến khắp mà lưu xuất

Hoặc người có tám tay

Ba mắt thân bừng sáng

Họ nhờ Du già vương

Biến khắp mà lưu xuất

Ðều nhờ tay Từ bi

Thắng hỷ, nắm cây cung

Bắn bằng tên Bát nhã

Ðoạn hết tế vô minh

Dùng đại lực tiến lên

Nắm giữ gậy trí huệ

Tất cả giống vô minh

Thảy đều bị dập nát

Các hữu tình sức lực

Kim Cang thân rực rỡ

điều phục hữu tình

Phải dùng Kim Cang thủ

Tự mình là tác giả

Thị hiện các thứ tập

Dạy dỗ đúng giáo lý

Biến làm vua bình đẳng

Ðói khát thiêu đốt thân

Thí như các ẩm thực

Thường khổ vì bệnh tật

Thí làm Y vương giỏi

Ma vương mong não loạn

Ma nữ làm mê hoặc

Bồ Tát làm thân hữu

Hay thí chỗ Bồ đề

Như mặt trời, mặt trăng

Aùnh sáng ai cũng thích

Thông chảy như điện sáng

Chiếu diệu vô số cõi

Do nhờ một ngọn đèn

Chiếu khắp nơi đều sáng

Nếu một đèn bị tắt

Tất cả đèn tắt theo

Như vậy Phật dị thục

Thị hiện các ánh sáng

Một Phật hiện Niết bàn

Các Phật cũng qui tịch

Một vị không diệt độ

Trời sáng làm sao tối

Thường hiện sự sanh diệt

Thường hiện biển sát độ

Kẻ vô trí đời tối

Hay tịnh trí huệ nhãn

Ði đến vô số cõi

Xót thương các hữu tình

Ngài đều không mệt mỏi

Nhờ áo giáp đại từ

Với tất cả thần túc

Du già đến bỉ ngạn

Ðều quán thời, phi thời

Khiến họ được lưu chuyển

Cứng rắn với dua nịnh

Tức thời liền vứt bỏ

Ðộ vô lượng hữu tình

Tức thì khiến thanh tịnh

Vô lượng Phật biến hóa

Tức thì được đổi dạng

Với trong biển ba cõi

Giăng tấm lưới điều phục

Co duỗi lưới diệu pháp

Phổ biến khiến thành thục

Nhờ dùng lưới điều phục

Khắp nơi được thành thục

Khắp nơi được giác ngộ

Kẻ phiêu lưu trong đó

Như hàng ngàn hữu tình

Ðã độ thoát tất cả

Ðộ rồi khiến giác ngộ

Không nghi ngờ diệu pháp

Chuông diệu pháp Thế Tôn

Khiến tất cả được nghe

Nhờ diệu pháp chấn động

Trừ sạch bụi phiền não

Người vô minh, tăng thượng

Khiến thanh tịnh tức khắc

Dùng sức sáng mặt trời

Chiếu phá sự mù tối

Vì theo phiền não tối

Và tội khác của thân

Khiến họ làm lợi ích

Dần dần được thanh tịnh

Nơi nơi người hiện hóa

An trụ như thủy nguyệt

Phiền não khuấy nhiễu tâm

Không thấy được Như Lai

Như ngạ quỷ ở biển

Chỉ thấy toàn biển khô

Như vậy kẻ ít phước

Không thể thấy được Phật

Kẻ hữu tình ít phước

Làm sao thành Như Lai?!

Như kẻ mù lúc sanh

Ngồi trên đống châu báu

Làm sao mà thấy được?!

Pháp thân bậc vô thượng

Thân Nhật quang vô số

Lưới ánh sáng vây quanh

Chư thiên ít thiện phước

Nên không thể thấy được

Bậc trời lớn ở trên

Làm sao mà thấy được?

Sắc ngài không thể thấy

Chư thiên lìa phiền não

Thiên, Tu la, Phạm thảy

Vì sao còn chút huệ

Nhưng nhờ oai lực Phật

thanh tịnh tự tâm

Mới thấy được thân Phật

Ðược tất cả lợi ích

Hữu tình phước đoan nghiêm

Phật đứng trước người đó

Hào quang chiếu diệu thân

Ba mươi hai tướng tốt

Bậc trượng phu như vậy

Thầy giống như biển lớn

Không cần nhiều thời gian

Liền được trí như biển

Sắc thân của Thế Tôn

An trụ trong nhiều kiếp

Ðiều phục kẻ khó điều

Dẫn đến giới các loại

Ðại Du già sống lâu

Vì sao lại chết yểu

Với vô số người khác

Thị hiện tuổi tăng giảm

Vô lượng vô số kiếp

Từng mạng sống tăng trưởng

Nhân duyên vô cùng tận

Ðạt được quả vô tận.

Nếu ai tương ưng hiểu lý này

Lấy huệ phân tích ngay nơi thân

Kẻ ấy sanh nơi Tịnh Liên Hoa

Nghe pháp Phật nói vô lượng thọ.

 

MỘT TRĂM NGÀN BÀI TỤNG CỦA KINH ÐẠI TẬP

BỒ TÁT ÐỊA TẠNG HỎI PHẬT VỀ PHÁP THÂN.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12507)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10397)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12359)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11662)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28820)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12059)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13019)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11453)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12385)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17456)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53087)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35499)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21410)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10686)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19259)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12425)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26055)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13324)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14392)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16099)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13736)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16856)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17597)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13141)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12544)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11618)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11630)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14515)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20494)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19001)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19594)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18671)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12194)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12332)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13868)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15042)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15047)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13999)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15531)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11408)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17204)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14987)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20225)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14630)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13858)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11719)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15074)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 13006)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22900)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14563)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11671)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13177)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16894)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18354)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11952)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11510)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15861)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12895)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18930)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18434)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant