Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Xưng Tán Tịnh Ðộ Phật Nhiếp Thọ

19 Tháng Mười Hai 201300:00(Xem: 14335)
Kinh Xưng Tán Tịnh Ðộ Phật Nhiếp Thọ


Kinh Xưng Tán Tịnh Ðộ Phật Nhiếp Thọ


Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0367

Nguyên tác Hán ngữ  [1]

Ðại Ðường, Tam tạng pháp sư Huyền Trang vâng chiếu dịch [1].
Việt dịch: Quảng Minh.


Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Bạc già phạm ở thành Thất La Phiệt, rừng Thệ Ða, trong vườn Cấp cô độc, cùng chúng đại bí sô một ngàn hai trăm năm mươi vị tụ hội, toàn là bậc tôn túc thanh văn, bậc đại A la hánmọi người đều biết: tôn giả Xá lợi tử, Ma ha Mục kiền liên, Ma ha Ca diếp, A nê luật đà, các vị đại thanh văn đại loại như vậy làm thượng thủ. Lại cùng với vô số vị bồ tát ma ha tát tụ hội, tất cả đều trú địa vị Không còn thoái chuyển, trang nghiêm bằng vô lượng công đức, danh hiệu của chư vị là: bồ tát Diệu Cát Tường, bồ tát Vô Năng Thắng, bồ tát Thường Tinh Tấn, bồ tát Bất Hưu Tức, các vị đại bồ tát đại loại như vậy làm thượng thủ. Lại có Ðế thích, Ðại phạn thiên vương - chủ của thế giới Kham nhẫn, bốn vị thiên vương hộ thế, các vị như vậy làm thượng thủ. Có số trăm ngàn câu chi na dữu đa [2] các vị thiên tử, vô lượng chư thiên, nhân loại, a tố lạc và các hạng thế gian khác, vì muốn nghe pháp nên cùng đến ngồi trong pháp hội.

Vào lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo tôn giả Xá lợi tử: Tôn giả có biết không, từ thế giới này, hướng về phương Tây, qua trăm ngàn câu chi na dữu đa cõi Phật, có một thế giới Phật tên là Cực lạc. Cõi Phật ấy có đức Thế tôn danh hiệuVô Lượng ThọVô Lượng Quang Như lai, Ứng cúng, Chánh đẳng giác, mười hiệu viên mãn, hiện nay vẫn còn trú trì yên ổn nơi cõi ấy, tuyên thuyết cho người ở đó về pháp thậm thâm vi diệu, làm cho họ được lợi ích yên vui thù thắng.

Này Xá lợi tử, vì lý do gì thế giới Phật ấy tên là Cực lạc? Này Xá lợi tử, vì người sống trong thế giới ấy không có tất cả sự lo nơi tâm và sự khổ nơi thân, mà chỉ có vô lượng sự hỷ lạcthanh tịnh, nên gọi là thế giới Cực lạc.

Này nữa Xá lợi tử, trong cõi Phật thanh tịnhthế giới Cực lạc, chỗ nào cũng có bảy lớp lan can báu, bảy lớp hàng cây Đa la [3] báu, bảy lớp lưới giăng báu, bao quanh khắp cả, trang nghiêm bằng bốn chất liệu quí báu: vàng, bạc, lưu ly [4] và pha lê [5], được trang sức tinh tế, xen kẽ [6].

Này Xá lợi tử, cõi Phật ấy có các sự trang hoàng mầu nhiệm, công đức trang nghiêm như vậy, thật đáng ưa thích, nên gọi là thế giới Cực lạc.

Này nữa Xá lợi tử, trong cõi Phật thanh tịnhthế giới Cực lạc, chỗ nào cũng có cái hồ bằng bảy chất liệu quí báu, trong đó đầy ắp nước tám công đức. Vì sao gọi là nước tám công đức? Một là lóng sạch, hai là trong mát, ba là ngon ngọt, bốn là mềm nhẹ, năm là tươi nhuận, sáu là an hòa, bảy là uống vào trừ được đói, khát, nhẫn đến vô số tội lỗi, tám là uống vào chắc chắn trưởng dưỡng căn thân tứ đạităng ích các thứ thiện căn thù thắng. Chúng sanh nhiều phước đức [7] thường thích thọ dụng nước ấy. Ðáy các hồ báu rải toàn cát bằng vàng. Bốn phía bao quanh hồ đều có thềm cấp và lối đi, trang sức bằng bốn chất liệu quí báu, thật đáng ưa thích. Bao quanh các hồ có cây quí báu, xếp theo hàng lối, tỏa hương ngào ngạt, trang sức bằng bảy chất liệu quí báu, thật đáng ưa thích. Bảy chất liệu quí báu: một là vàng, hai là bạc, ba là lưu ly, bốn là pha lê, năm là xích chân châu, sáu là mã não [8], bảy là xa cừ [9]. Trong các hồ đó thường có các hoa sen đủ màu sắc, lớn như bánh xe: hoa sen xanh, hiển thị màu xanh, ánh ra sáng xanh, ảnh tượng xanh; hoa sen vàng, hiển thị màu vàng, ánh ra sáng vàng, ảnh tượng vàng; hoa sen đỏ, hiển thị màu đỏ, ánh ra sáng đỏ, ảnh tượng đỏ; hoa sen trắng, hiển thị màu trắng, ánh ra sáng trắng, ảnh tượng trắng. Bốn loại hoa sen, hiển thị bốn màu, ánh ra bốn ánh sáng, có bốn ảnh tượng nơi tâm [10]. 

Này Xá lợi tử, cõi Phật ấy có các sự trang hoàng mầu nhiệm, công đức trang nghiêm như vậy, thật đáng ưa thích, nên gọi là thế giới Cực lạc.

Này nữa Xá lợi tử, trong cõi Phật thanh tịnhthế giới Cực lạc, tự nhiên thường có vô lượng vô biên kỹ nhạc tuyệt diệu, âm khúc hòa nhã, thật đáng ưa thích. Các loài hữu tình nghe được âm thanh tuyệt diệu ấy thì tất cả ác phiền não đều tiêu diệt, vô lượng thiện pháp lần lượt tăng trưởng, mau chứng Vô thượng chánh đẳng bồ đề.

Này Xá lợi tử, cõi Phật ấy có các sự trang hoàng mầu nhiệm, công đức trang nghiêm như vậy, thật đáng ưa thích, nên gọi là thế giới Cực lạc.

Này nữa Xá lợi tử, trong cõi Phật thanh tịnhthế giới Cực lạc, khắp cả mặt đất cấu thành bằng vàng ròng, chạm vào thì mềm mại, thơm dịu, sáng chói, và trang sức xen kẽ bằng vô lượng vô biên chất liệu quí báu.

Này Xá lợi tử, cõi Phật ấy có các sự trang hoàng mầu nhiệm, công đức trang nghiêm như vậy, thật đáng ưa thích, nên gọi là thế giới Cực lạc.

Này nữa Xá lợi tử, trong cõi Phật thanh tịnhthế giới Cực lạc, ngày đêm sáu buổi thường mưa xuống nhiều loại hoa trời thượng diệu. Hoa trời tươi sáng, thơm dịu, mềm mại và màu sắc xen nhau. Người nhìn thấy hoa ấy có sự dễ chịu nơi thân và sự vui thích nơi tâm, nhưng không tham đắm. Hoa trời làm cho người thế giới Cực lạc tăng trưởng vô lượng vô số công đức thù thắng, không thể nghĩ bàn [11]. Người thế giới Cực lạc, ngày đêm sáu buổi, thường đem hoa trời hiến cúng đức Phật Vô Lượng Thọ. Vào mỗi sáng sớm, người thế giới ấy mang hoa trời, trong khoảng bữa ăn, bay đến vô lượng thế giới ở phương khác, hiến cúng trăm ngàn câu chi chư Phật. Nơi chỗ chư Phật, dùng trăm ngàn câu chi hoa trời mà tung rải trên mỗi đức Phật để hiến cúng, rồi trở về thế giới của mình, nghỉ trưa [12].

Này Xá lợi tử, cõi Phật ấy có các sự trang hoàng mầu nhiệm, công đức trang nghiêm như vậy, thật đáng ưa thích, nên gọi là thế giới Cực lạc.

Này nữa Xá lợi tử, trong cõi Phật thanh tịnhthế giới Cực lạc, thường có các loại chim đẹp lạ, đáng yêu, màu sắc xen nhau, như là: ngỗng, nhạn, thu lộ [13], hồng hạc, khổng tước, anh vũ, yết la tần ca [14], mạng mạng [15]. Những loại chim như vậy, ngày đêm sáu buổi, thường tụ tập lại, hót ra âm thanh giao hòa và tuyệt nhã. Âm thanh của mỗi loại chim đều diễn đạt những giáo pháp tuyệt diệu, như là: bốn niệm trú, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy giác chi, tám chánh đạo [16], vô số giáo pháp tuyệt diệu sâu xa như vậy. Người thế giới Cực lạc nghe âm thanh ấy, ai cũng nhớ nghĩ về Phật, nhớ nghĩ về Pháp, nhớ nghĩ về Tăng, có được vô lượng công đức huân tu thân mình.

Này Xá lợi tử, ông nghĩ thế nào, các loại chim ở thế giới Cực lạc có phải là bàng sanh thuộc nẻo dữ không? Ông đừng nghĩ như thế. Vì sao? Vì tịnh độ của Phật thì không có ba nẻo đường dữ, cũng không nghe cái tên ba nẻo đường dữ, làm sao có thật các loại chim do tội nghiệp chiêu cảm vào bàng sanh. Nên biết, các loại chim này toàn do đức Phật Vô Lượng Thọ biến hiện ra để diễn đạt vô số âm thanh diệu pháp, làm cho người thế giới Cực lạc được lợi ích yên vui.

Này Xá lợi tử, cõi Phật ấy có các sự trang hoàng mầu nhiệm, công đức trang nghiêm như vậy, thật đáng ưa thích, nên gọi là thế giới Cực lạc.

Này nữa Xá lợi tử, trong cõi Phật thanh tịnhthế giới Cực lạc, thường có gió nhẹ thổi qua những hàng cây và lưới giăng quí báu, phát ra âm thanh tuyệt diệu, tựa như trăm ngàn câu chi thiên nhạc đồng thời hòa tấu, vang ra âm thanh tuyệt diệu, thật đáng ưa thích thưởng thứcCõi Phật ấy như vậy, thường có gió nhẹ thổi qua những hàng cây và lưới giăng quí báu, phát ra âm thanh tuyệt diệu, nói các giáo pháp. Người thế giới Cực lạc nghe âm thanh ấy thì sanh khởi nhớ nghĩ về Phật, nhớ nghĩ về Pháp, nhớ nghĩ về Tăng, là những tác ý có được vô lượng công đức.

Này Xá lợi tử, cõi Phật ấy có các sự trang hoàng mầu nhiệm, công đức trang nghiêm như vậy, thật đáng ưa thích, nên gọi là thế giới Cực lạc.

Này nữa Xá lợi tử, trong cõi Phật thanh tịnhthế giới Cực lạc, có vô lượng vô biên sự không thể nghĩ bàn, sự rất hiếm có, đại loại như thế. Giả sử trải qua thời gian trăm ngàn câu chi na dữu đa kiếp, dùng vô lượng trăm ngàn câu chi na dữu đa cái lưỡi, và mỗi cái lưỡi thốt ra vô lượng âm thanh, tán dương công đức của cõi Phật ấy, cũng không thể tán dương hết được, nên gọi là thế giới Cực lạc.

Này nữa Xá lợi tử, trong cõi Phật thanh tịnhthế giới Cực lạc, do duyên gì đức Phật ấy có danh hiệuVô Lượng Thọ? Này Xá lợi tử, do đức Như lai ấy và người ở tịnh độ của ngài có thọ mạng đến vô lượng vô số đại kiếp. Do duyên này, đức Như lai ở cõi ấy có danh hiệuVô Lượng Thọ. Này Xá lợi tử, đức Phật Vô Lượng Thọ chứng được Vô thượng chánh đẳng chánh giác đến nay đã mười đại kiếp. Này Xá lợi tử, do duyên gì đức Phật ấy có danh hiệuVô Lượng Quang? Này Xá lợi tử, do đức Như lai ấy thường phóng vô lượng vô biên ánh sáng kỳ diệu, chiếu soi khắp cả cõi Phật mười phương, thực hiện Phật sự không có chướng ngại. Do duyên này, đức Như lai ở cõi ấy có danh hiệuVô Lượng Quang.

Này Xá lợi tử, cõi Phật ấy có các sự trang hoàng mầu nhiệm, công đức trang nghiêm như vậy, thật đáng ưa thích, nên gọi là thế giới Cực lạc.

Này nữa Xá lợi tử, trong cõi Phật thanh tịnhthế giới Cực lạc, đức Phật Vô Lượng Thọ thường có vô lượng đệ tử thanh văn, tất cả đều là bậc đại A la hán, đầy đủ các thứ công đức vi diệu, số ấy vô biên không thể tính kể.

Này Xá lợi tử, cõi Phật ấy có các sự trang hoàng mầu nhiệm, công đức trang nghiêm như vậy, thật đáng ưa thích, nên gọi là thế giới Cực lạc.

Này nữa Xá lợi tử, trong cõi Phật thanh tịnhthế giới Cực lạc, đức Phật Vô Lượng Thọ thường có vô lượng đệ tử bồ tát, tất cả đều là những bậc Nhất sanh sở hệ [17], đầy đủ các thứ công đức vi diệu, số ấy vô biên không thể tính kể. Giả sử trải qua thời gian vô số lượng kiếp, tán dương công đức của chư vị, cũng không thể tán dương hết được.

Này Xá lợi tử, cõi Phật ấy có các sự trang hoàng mầu nhiệm, công đức trang nghiêm như vậy, thật đáng ưa thích, nên gọi là thế giới Cực lạc.

Này nữa Xá lợi tử, các hữu tình sanh về cõi ấy thì đều ở địa vị Không còn thối chuyển: chắc chắn không còn sa vào các nẻo đường dữ, các xứ biên địa man dã [18]; thường du hành qua các quốc độ thanh tịnh của chư Phật; hạnh nguyện thù thắng tăng tiến trong từng ý nghĩ; quyết định sẽ chứng được Vô thượng chánh đẳng chánh giác

Này Xá lợi tử, cõi Phật ấy có các sự trang hoàng mầu nhiệm, công đức trang nghiêm như vậy, thật đáng ưa thích, nên gọi là thế giới Cực lạc.

Này nữa Xá lợi tử, các hữu tình nghe cõi Phật thanh tịnh của đức Phật Vô Lượng Thọ ở phương Tây, trang nghiêm bằng vô lượng công đức, hãy nên phát nguyện sanh về cõi Phật ấy. Vì sao? Vì ai sanh cõi ấy sẽ được cùng chung sống một chỗ với các bậc đại sĩ, trang nghiêm bằng vô lượng công đức như vậy; thọ dụng cõi Phật thanh tịnhpháp lạc đại thừa, trang nghiêm bằng vô lượng công đức như vậy, vĩnh viễn không thoái chuyển, vô lượng hạnh nguyện tăng tiến trong từng ý nghĩ, mau chứng Vô thượng chánh đẳng bồ đề.

Này Xá lợi tử, các hữu tình sanh cõi Phật ấy đã thành tựu vô lượng vô biên công đức. Chẳng phải các hữu tình có chút thiện căn sẽ được sanh cõi Phật thanh tịnhthế giới Cực Lạc của đức Phật Vô Lượng Thọ. Này nữa Xá lợi tử, thiện nam tử hay thiện nữ nhân nào có đức tin thanh tịnh, được nghe danh hiệu công đức vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn của đức Phật Vô Lượng Thọthế giới Cực lạc công đức trang nghiêm như vậy, nghe rồi tư duy: hoặc một ngày đêm, hoặc hai, hoặc ba, hoặc bốn, hoặc năm, hoặc sáu, hoặc bảy ngày đêm, buộc sự nhớ nghĩ không cho tán loạn [19], thì thiện nam tử hay thiện nữ nhân đó lúc sắp chết, đức Phật Vô Lượng Thọ cùng vô lượng thánh chúng đệ tử thanh văn, bồ tát của Ngài, bao quanh trước sau, đứng trước người ấy, từ bi gia hộ, làm cho người ấy tâm không thác loạn, và chết rồi thì theo Ngài và thánh chúng mà sanh cõi Phật thanh tịnhthế giới Cực Lạc của đức Phật Vô Lượng Thọ. Này nữa Xá lợi tử, Như lai thấy lý do trọng đại, lợi ích yên vui như vậy, nên nói lời thành thật rằng: “Các thiện nam tử hay thiện nữ nhânđức tin thanh tịnh, được nghe danh hiệu công đức vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn của đức Phật Vô Lượng Thọcõi Phật thanh tịnhthế giới Cực lạc, thì hết thảy nên tin tưởng, tiếp nhận, phát nguyện, tu hành đúng như kinh này dạy, nguyện sanh cõi Phật ấy.”

Này nữa Xá lợi tử, như hiện thời Như lai xưng dương tán thán công đức Phật độ vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn của đức Phật Vô Lượng Thọ; như vậy ở phương Ðông, hiện tại cũng có đức Như lai Bất Ðộng, đức Như lai Sơn Tràng, đức Như lai Ðại Sơn, đức Như lai Sơn Quang, đức Như lai Diệu Tràng, căng già sa số [20] các đức Như lai đại loại như vậy, trú ở phương Ðông, nơi tịnh độ của mình, mỗi vị thị hiện tướng lưỡi rộng dài, trùm khắp ba ngàn đại thiên thế giới, bao quanh khắp cả, nói lời thành thật như vầy: “Hữu tình các người đều nên tin nhận Pháp môn tán dương công đức Phật độ không thể nghĩ bàn, hết thảy chư Phật đều nhiếp thọ cho [21].”

Này nữa Xá lợi tử, như vậy ở phương Nam, hiện tại cũng có đức Như lai Nhật Nguyệt Quang, đức Như lai Danh Xưng Quang, đức Như lai Ðại Quang Uẩn, đức Như lai Mê Lô Quang, đức Như lai Vô Biên Tinh Tiến, căng già sa số các đức Như lai đại loại như vậy, trú ở phương Nam, nơi tịnh độ của mình, mỗi vị thị hiện tướng lưỡi rộng dài, trùm khắp ba ngàn đại thiên thế giới, bao quanh khắp cả, nói lời thành thật như vầy: “Hữu tình các người đều nên tin nhận Pháp môn tán dương công đức Phật độ không thể nghĩ bàn, hết thảy chư Phật đều nhiếp thọ cho.”

Này nữa Xá lợi tử, như vậy ở phương Tây, hiện tại cũng có đức Như lai Vô Lượng Thọ, đức Như lai Vô Lượng Uẩn, đức Như lai Vô Lượng Quang, đức Như lai Vô Lượng Tràng, đức Như lai Ðại Tự Tại, đức Như lai Ðại Quang, đức Như lai Quang Diệm, đức Như lai Ðại Bảo Tràng, đức Như lai Phóng Quang, căng già sa số các đức Như lai đại loại như vậy, trú ở phương Tây, nơi tịnh độ của mình, mỗi vị thị hiện tướng lưỡi rộng dài, trùm khắp ba ngàn đại thiên thế giới, bao quanh khắp cả, nói lời thành thật như vầy: “Hữu tình các người đều nên tin nhận Pháp môn tán dương công đức Phật độ không thể nghĩ bàn, hết thảy chư Phật đều nhiếp thọ cho.”

Này nữa Xá lợi tử, như vậy ở phương Bắc, hiện tại cũng có đức Như lai Vô Lượng Nghiêm Thông Ðạt Giác Tuệ, đức Như lai Vô Lượng Thiên Cổ Chấn Ðại Diệu Âm, đức Như lai Ðại Uẩn, đức Như lai Quang Võng, đức Như lai Sa La Ðế Vương, căng già sa số các đức Như lai đại loại như vậy, trú ở phương Bắc, nơi tịnh độ của mình, mỗi vị thị hiện tướng lưỡi rộng dài, trùm khắp ba ngàn đại thiên thế giới, bao quanh khắp cả, nói lời thành thật như vầy: “Hữu tình các người đều nên tin nhận Pháp môn tán dương công đức Phật độ không thể nghĩ bàn, hết thảy chư Phật đều nhiếp thọ cho .”

Này nữa Xá lợi tử, như vậy ở phương dưới, hiện tại cũng có đức Như lai Thị Hiện Nhất Thiết Diệu Pháp Chánh Lý Thường Phóng Hỏa Vương Thắng Ðức Quang Minh, đức Như lai Sư Tử, đức Như lai Danh Xưng, đức Như lai Dự Quang, đức Như lai Chánh Pháp, đức Như lai Diệu Pháp, đức Như lai Pháp Tràng, đức Như lai Công Ðức Hữu, đức Như lai Công Ðức Hiệu, căng già sa số các đức Như lai đại loại như vậy, trú ở phương dưới, nơi tịnh độ của mình, mỗi vị thị hiện tướng lưỡi rộng dài, trùm khắp ba ngàn đại thiên thế giới, bao quanh khắp cả, nói lời thành thật như vầy: “Hữu tình các người đều nên tin nhận Pháp môn tán dương công đức Phật độ không thể nghĩ bàn, hết thảy chư Phật đều nhiếp thọ cho.”

Này nữa Xá lợi tử, như vậy ở phương trên, hiện tại cũng có đức Như lai Phạm Âm, đức Như lai Tú Vương, đức Như lai Hương Quang, đức Như lai Như Hồng Liên Hoa Thắng Ðức, đức Như lai Thị Hiện Nhất Thiết Nghĩa Lợi, căng già sa số các đức Như lai đại loại như vậy, trú ở phương trên, nơi tịnh độ của mình, mỗi vị thị hiện tướng lưỡi rộng dài, trùm khắp ba ngàn đại thiên thế giới, bao quanh khắp cả, nói lời thành thật như vầy: “Hữu tình các người đều nên tin nhận Pháp môn tán dương công đức Phật độ không thể nghĩ bàn, hết thảy chư Phật đều nhiếp thọ cho.”

Này nữa Xá lợi tử, như vậy ở phương Đông Nam, hiện tại cũng có đức Như lai Tối Thượng Quảng Ðại Vân Lôi Âm Vương, căng già sa số các đức Như lai đại loại như vậy, trú ở phương Đông Nam, nơi tịnh độ của mình, mỗi vị thị hiện tướng lưỡi rộng dài, trùm khắp ba ngàn đại thiên thế giới, bao quanh khắp cả, nói lời thành thật như vầy: “Hữu tình các người đều nên tin nhận Pháp môn tán dương công đức Phật độ không thể nghĩ bàn, hết thảy chư Phật đều nhiếp thọ cho.”

Này nữa Xá lợi tử, như vậy ở phương Tây Nam, hiện tại cũng có đức Như lai Tối Thượng Nhật Quang Danh Xưng Công Ðức, căng già sa số các đức Như lai đại loại như vậy, trú ở phương Tây Nam, nơi tịnh độ của mình, mỗi vị thị hiện tướng lưỡi rộng dài, trùm khắp ba ngàn đại thiên thế giới, bao quanh khắp cả, nói lời thành thật như vầy: “Hữu tình các người đều nên tin nhận Pháp môn tán dương công đức Phật độ không thể nghĩ bàn, hết thảy chư Phật đều nhiếp thọ cho.”

Này nữa Xá lợi tử, như vậy ở phương Tây Bắc, hiện tại cũng có đức Như lai Vô Lượng Công Ðức Hỏa Vương Quang Minh, căng già sa số các đức Như lai đại loại như vậy, trú ở phương Tây Bắc, nơi tịnh độ của mình, mỗi vị thị hiện tướng lưỡi rộng dài, trùm khắp ba ngàn đại thiên thế giới, bao quanh khắp cả, nói lời thành thật như vầy: “Hữu tình các người đều nên tin nhận Pháp môn tán dương công đức Phật độ không thể nghĩ bàn, hết thảy chư Phật đều nhiếp thọ cho.”

Này nữa Xá lợi tử, như vậy ở phương Đông Bắc, hiện tại cũng có vô số trăm ngàn câu chi đức Như lai Quảng Tuệ [22], căng già sa số các đức Như lai đại loại như vậy, trú ở phương Đông Bắc, nơi tịnh độ của mình, mỗi vị thị hiện tướng lưỡi rộng dài, trùm khắp ba ngàn đại thiên thế giới, bao quanh khắp cả, nói lời thành thật như vầy: “Hữu tình các người đều nên tin nhận Pháp môn tán dương công đức Phật độ không thể nghĩ bàn, hết thảy chư Phật đều nhiếp thọ cho.”

Này nữa Xá lợi tử, vì lý do gì kinh này tên là “Pháp môn tán dương công đức Phật độ không thể nghĩ bàn, hết thảy chư Phật đều nhiếp thọ cho”? Này Xá lợi tử, vì trong kinh này xưng dương tán thán công đức Phật độ vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn là thế giới Cực lạc của đức Phật Vô Lượng Thọ, và lại được mười phương chư Phật Thế tôn vì muốn phương tiện cho các hữu tình được lợi ích yên vui, nên mỗi vị đều ở nơi quốc độ của mình, thị hiện đại thần biến, nói lời thành thật, khuyên các hữu tình tin nhận pháp môn này, vì vậy mà kinh này tên là “Pháp môn tán dương công đức Phật độ không thể nghĩ bàn, hết thảy chư Phật đều nhiếp thọ cho.”

Này nữa Xá lợi tử, thiện nam tử hay thiện nữ nhân nào hoặc đã nghe, hoặc sẽ nghe, hoặc đang nghe, nghe kinh này rồi tin hiểu sâu xa, tin hiểu rồi thì chắc chắn được mười căng già sa chư Phật Thế Tôn trú trong mười phương nhiếp thọ cho, tu hành đúng như kinh này dạy, nên ai cũng quyết chắc được sự không thoái chuyển đối với Vô thượng chánh đẳng chánh giác, ai cũng quyết chắc sanh cõi Phật thanh tịnhthế giới Cực Lạc của đức Phật Vô Lượng Thọ.

Thế nên, này Xá lợi tử, hết thảy hữu tình các người đều nên tin tưởng, tiếp nhận và lý giải lời nói của Như lai và của mười phương chư Phật Thế tôn, phải nỗ lực tinh tiếntu hành đúng như kinh này dạy, chớ sanh hoài nghi, lo ngại.

Này nữa Xá lợi tử, thiện nam tử hay thiện nữ nhân nào đối với công đức trang nghiêm của cõi Phật thanh tịnhthế giới Cực lạc của đức Phật Vô Lượng Thọ, hoặc đã phát nguyện, hoặc sẽ phát nguyện, hoặc đang phát nguyện (nguyện sanh cõi Phật ấy), thì chắc chắn được mười căng già sa chư Phật Thế tôn trú trong mười phương nhiếp thọ cho, tu hành đúng như kinh này dạy, nên ai cũng quyết chắc được sự không thoái chuyển đối với Vô thượng chánh đẳng chánh giác, ai cũng quyết chắc sanh cõi Phật thanh tịnhthế giới Cực Lạc của đức Phật Vô Lượng Thọ.

Thế nên, này Xá lợi tử, thiện nam tử hay thiện nữ nhân nào có lòng tin thanh tịnh, hết thảy đều nên đối với cõi Phật thanh tịnhthế giới Cực lạc của đức Phật Vô Lượng Thọ, có sự tin hiểu sâu xa, thì hãy phát nguyện vãng sanh, đừng sống phóng dật [23].

Này nữa Xá lợi tử, như nay đây Như lai tán dương công đức không thể nghĩ bàn của cõi Phật thanh tịnhthế giới Cực lạc của đức Phật Vô Lượng Thọ, chư Phật Thế Tônmười phương cũng tán dương công đức vô biên, không thể nghĩ bàn của Như lai, đều nói như vầy: “Rất kỳ lạ hiếm có, đức Thích Ca Tịch Tĩnh, Thích Ca Pháp Vương, Như lai, Ứng cúng, Chánh đẳng giác, Minh hạnh viên mãn, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng trượng phu, Ðiều ngự sĩ, Thiên nhân sư, Phật: Thế Tôn, có thể ở trong thế giới Kham nhẫn này, vào thời kỳ dữ dội đầy cả năm thứ vẩn đục, đó là: kiếp trược, hữu tình trược, phiền não trược, kiến trượcmạng trược, lại chứng đắc Vô thượng chánh đẳng chánh giác, và vì muốn phương tiện cho các hữu tình được lợi ích yên vui, nên nói pháp môn mà tất cả thế gian rất khó tin.”

Thế nên, này Xá lợi tử, các người nên biết Như lai ở trong thời kỳ dữ dội đầy cả năm thứ vẩn đục của thế giới Kham nhẫn tạp nhiễm này, lại chứng đắc Vô thượng chánh đẳng chánh giác, và vì muốn phương tiện cho các hữu tình được lợi ích yên vui, nên nói pháp môn mà tất cả thế gian rất khó tin này, thì đó là việc rất hiếm có, không thể nghĩ bàn.

Này nữa Xá lợi tử, trong thời kỳ dữ dội đầy cả năm thứ vẩn đục của thế giới Kham nhẫn tạp nhiễm này, thiện nam tử hay thiện nữ nhân nào có lòng tin thanh tịnh, nghe nói về pháp môn tất cả thế gian rất khó tin này, mà có sự tin hiểu, thọ trì, diễn giảng, tu hành đúng như kinh này dạy, phải biết người ấy thật là hiếm có, đã từng trồng căn lành với vô lượng đức Phật. Người ấy mạng chung thì quyết định sanh thế giới Cực lạc ở phương Tây, thọ dụng cõi Phật thanh tịnhpháp lạc đại thừa, trang nghiêm bằng vô lượng công đức; ngày đêm sáu buổi, thân cận, hiến cúng đức Phật Vô Lượng Thọ; du hành khắp mười phương để hiến cúng chư Phật, từ nơi chư Phật được nghe pháp, được thọ ký; tư lương phước tuệ chóng đạt đến viên mãn, mau chứng Vô thượng chánh đẳng bồ đề

Khi đức Bạc già phạm nói kinh này xong, tôn giả Xá lợi tử, các vị đại thanh văn, cùng chúng bồ tát ma ha tát, vô lượng chư thiên, nhân loại, a tố lạc, hết thảy đại chúng nghe đức Bạc già phạm dạy, ai cũng rất hoan hỷ, tin tưởng, tiếp nhậnphụng hành.

19.03.2013 (08.02.Quý Tỵ)



[1] ĐTK 367, Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ Kinh (稱讚淨土佛攝受經).

[2] Câu chi na dữu đa (俱胝那庾多, Skt. koṭi-nayuta): ~10 000 000 x 100 000 000 = 1015 . Trăm ngàn câu chi na dữu đa = 1020.

[3] Đa la thọ (多羅樹, Pāli: tāla): một giống cây cọ, tên khoa học Borassus flabelliformis.

[4] Chánh văn là Phệ lưu ly (吠琉璃, vaidurya).

[5] Chánh văn là Pha chi ca (頗胝迦, sphaṭika).

[6] Thí dụ: “Cây Đa la bằng vàng thì hoa, lá và trái bằng bạc. Cây Đa la bằng bạc thì hoa, lá và trái bằng vàng. Cây Đa la bằng lưu ly thì hoa, lá và trái bằng pha lê. Cây Đa la bằng pha lê thì hoa, lá và trái bằng lưu ly.” (Trung a hàm, kinh Đại Thiện Kiến vương, Thích Tuệ Sỹ dịch)

[7] Chỉ cho người sống trong thế giới Cực lạc: “Này Xá lợi tử, các hữu tình sanh cõi Phật ấy đã thành tựu vô lượng vô biên công đức.”

[8] Chánh văn là A thấp ma yết lạp bà (阿濕摩揭拉婆, Ashmagarbha).

[9] Chánh văn là Mâu sa lạc yết lạp bà (牟娑落揭拉婆, Musàragalva).

[10] Đối tượng phân biệt của nhãn thức là sắc (rūpa), chỉ cho mọi hiện tượng vật chất sanh diệt biến hóaSắc cảnh bị phân biệt bởi nhãn thức được chia làm ba loại: a. Hiển sắc: có 12 hoặc 13 loại: xanh, vàng, đỏ, trắng (4 màu căn bản), khói, mây, bụi, sương, bóng ảnh, ánh sáng, sáng, tối (và hư không); b. Hình sắc: có 8 loại hoặc 10 loại: dài, ngắn, vuông, tròn, cao, thấp, thẳng, cong, (thô, tế); c. Biểu sắc: lấy, bỏ, đi, đứng, nằm, ngồi, cong, duổi … chỉ các động tác biểu hiện ra bên ngoài có thể thấy được. Ở đây, hoa sen được đề cập qua 2 phương diện hình sắchiển sắc, bởi lẽ, theo luận Tỳ bà sa, “Nếu xứ nào có đủ hình sắchiển sắc thì được lập làm sắc xứ.” Ngài Huyền Trang dịch là thanh hình, thanh hiển, thanh quang, thanh ảnh (青形,青顯,青光,青影) v.v..., dịch ý là thanh, thanh sắc, thanh quang, thanh thanh nhập mục (青,青色,青光,青青入目) v.v…, nghĩa là: một hoa sen xanh (thanh hình), hoa có màu xanh (thanh hiển), hoa ánh ra sáng xanh (thanh quang), nơi nhãn thứcấn tượng hoa xanh và sáng xanh (thanh ảnh).

[11] “Hoa trời tươi sáng … không thể nghĩ bàn” là để giải thích sự thượng diệu của hoa trời.

[12] Chánh văn là du thiên trú (遊天住): Phạn ngữdivavihara; diva là thiên, vihara là trú hay du; dịch ý là ngọ hưu (午休),tức nghỉ trưa. Ngài Cưu ma la thập dịch divavihara là phạn thực kinh hành (飯食經行).

[13] Thu lộ (鶖鷺,Śāri): chim Xá lợi.

[14] Yết la tần ca (羯羅頻迦, Kalavika): chim Ca lăng tần già.

[15] Mạng mạng (命命, Jivamjivaka): chim Cộng mạng

[16] Giác đạo chi (覺道支): chỉ cho thất giác chibát chánh đạo chi.

[17] Nhất sanh sở hệ (一生所繫) = Nhất sanh bổ xứ (一生補處): Bồ tát ở giai vị cao tột, tức đẳng giác vị, còn hệ phược một đời thì bổ xứ làm Phật.

[18] Chánh văn là biên địa hạ tiện, miệt lệ sa trung (邊地下賤,蔑戾車中). Biên địa là những chỗ ở quanh bên ngoài (đối lại, chỗ ở giữa, bên trong là trung quốc). Miệt lệ xa là những giống dân dơ bẩn, ác, mọi rợ. Diễn nghĩa rộng, biên địa man dã là những xứ không có Phật pháp, không có văn minh.

[19] Hệ niệm bất loạn (繫念不亂): Buộc sự nhớ nghĩ vào danh hiệu của Phật mà không nhớ nghĩ gì khác, dù là tốt hay xấu. Ngài Cưu ma la thập dịch là nhất tâm bất loạn (一心不亂), tức chuyên nhất cho đến đồng nhất tâm trí vào danh hiệu của Phật.

[20] Căng già sa (殑伽沙) = Hằng già sa (恆伽沙) hay hằng hà sa (恆沙).

[21] “Xưng tán bất khả tư nghị Phật độ công đức, nhất thiết chư Phật nhiếp thọ pháp môn.” Ngài Cưu ma la thập dịch đề kinh này là: “Xưng tán bất khả tư nghị công đức, nhất thiết chư Phật sở hộ niệm kinh.” (Bản kinh Tán dương công đức bất khả tư nghị, hết thảy chư Phật đều giữ gìn cho.)

[22] Các đức Như lai khác nhau nhưng cùng một danh hiệu Quảng Tuệ Như lai.

[23] Phóng dật có 2: một là, phóng dật do tác ý (động niệm) mà hiện hành, thì đối trị bằng giới niệm, tức chánh niệm do tịnh giới đem lại; hai là, phóng dật không do tác ý (bất động) mà chỉ do tập quán nhậm vận hiện hành, thì đối trị bằng chánh trí liên tục, tức sự trì danh niệm Phật sao cho “hệ niệm bất loạn”. Đừng sống phóng dậtnỗ lực tự chế ngự tâm mình đối với 5 căn, 5 dục, và nỗ lực liên tục trong sự niệm Phật. Chính sự bất phóng dật quyết dịnh sự sanh Cực lạc và sự không thoái chuyển Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12507)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10396)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12357)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11659)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28816)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12058)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13018)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11452)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12384)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17453)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53084)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35497)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21409)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10685)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19259)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12423)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26055)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13323)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14389)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16098)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13734)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16855)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17597)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13140)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12542)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11617)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11628)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14515)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20493)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19001)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19588)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18671)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12191)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12329)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13868)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15041)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15046)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13998)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15531)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11407)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17203)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14986)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20220)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14629)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13856)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11717)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15073)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 13005)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22895)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14563)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11670)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13176)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16893)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18354)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11952)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11509)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15860)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12894)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18927)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18433)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant