Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm

10 Tháng Hai 201400:00(Xem: 21221)
Kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm


KINH ĐẠI PHẬT ĐẢNH THỦ LĂNG NGHIÊM


Đời Đường, sa môn Bát Lạt Mật Đế (người Trung-Thiên-trúc) dịch từ Phạn văn ra Hán văn

Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn và chú thích

BAN BẢO TRỢ PHIÊN DỊCH PHÁP TẠNG VIỆT NAM

Phật Lịch 2556 (2012)


KINH ĐẠI PHẬT ĐẢNH THỦ LĂNG NGHIÊM

(tập 1)


Cư sĩ Hạnh Cơ dịch, giới thiệu, chú thích, đánh máy và trình bày

Cư sĩ Tịnh Kiên đọc và sửa chữa bản thảo

Ban Bảo Trợ Phiên Dịch Pháp Tạng Việt Nam in lần thứ nhất, California, 2012

Đệ tử chúng con, Hạnh Cơ và Tịnh Kiên,

chí thành đảnh lễ Chư Tôn Đức Ân Sư:

Hòa thượng bổn sư Thích Huyền Tân

Hòa thượng giáo thọ Thích Đôn Hậu

Hòa thượng giáo thọ Thích Chánh Thống

Hòa thượng giáo thọ Thích Trí Thủ

Hòa thượng giáo thọ Thích Trí Hữu

Hòa thượng giáo thọ Thích Trí Thành

Hòa thượng giáo thọ Thích Thiện Hòa

Hòa thượng giáo thọ Thích Thiện Hoa

Hòa thượng giáo thọ Thích Thiện Minh

Hòa thượng giáo thọ Thích Thiện Siêu

Hòa thượng giáo thọ Thích Như Ý (Trà-am)

Hòa thượng giáo thọ Thích Viên Giác

Hòa thượng giáo thọ Thích Huyền Quang

Hòa thượng giáo dưỡng Thích Chí Tín

Hòa thượng giáo thọ Thích Huyền Vi

Hòa thượng giáo thọ Thích Định Tuệ

Hòa thượng giáo thọ Thích Thuyền Ấn

Hòa thượng giáo đạo Thích Đỗng Minh

Ni trưởng bổn sư Thích Nữ Đàm Thu



GIỚI THIỆU

Kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm


Kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm là tên gọi tắt của Kinh Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm (Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh), do sa môn Bát Lạt Mật Đế (người Trung Thiên-trúc) dịch vào năm 705 (đời Đường) tại chùa Chế-chỉ ở Quảng-châu (tỉnh Quảng-đông), được thu vào Tạng Đại Chánh, quyển 19, kinh số 945. Tên kinh này cũng thường được gọi một cách ngắn gọn là Kinh Thủ Lăng Nghiêm (hoặc gọn hơn nữa là Kinh Lăng Nghiêm); nhưng khác với bản Kinh Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội, do pháp sư Cưu Ma La Thập (344-413) dịch vào đời Diêu-Tần (Tạng Đại Chánh, quyển 15). Theo Khai Nguyên Thích Giáo Lục của pháp sư Trí Thăng (đời Đường), kinh này đã do sa môn Hoài Địch (?-? – người Trung-quốc) dịch; nhưng trong Tạng Đại Chánh (quyển 19) thì ghi người dịch là sa môn Bát Lạt Mật Đế, mà không có tên sa môn Hoài Địch. Theo pháp sư Viên Anh (1878-1953) trong tác phẩm Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh Giảng Nghĩa, pháp sư Bát Lạt Mật Đế là vị “dịch chủ” (người dịch chính thức và là vị đứng đầu của đạo tràng phiên dịch), còn sa môn Hoài Địch thì phụ trách việc “chứng nghĩa” (thẩm định sự chính xác của văn dịch).

Ý nghĩa đề kinh:

- Đại Phật Đảnh. Chữ “đại” ở đây có nghĩa là rộng lớn bao trùm, rốt ráo cùng cực. “Phật đảnh” là tướng “nhục kế” trên đỉnh đầu của đức Phật. Đó là tướng cao quí, nhiệm mầu nhất trong 32 tướng tốt của đức Phật, con mắt phàm phu của chúng sinh không thể thấy được.

- Như Lai Mật Nhân. “Như Lai” là danh hiệu đầu tiên trong mười danh hiệu chung của chư Phật; Như Lai tức là Phật. “Mật nhân” nghĩa là nguyên nhân sâu kín huyền nhiệm, đó tức là chân tâm tịch tĩnh, thanh tịnh, thường hằng.

- Tu Chứng Liễu Nghĩa. “Liễu nghĩa” có nghĩa là tiến thẳng tới chỗ rốt ráo cùng cực, đó là giải thoát trọn vẹn, niết bàn tuyệt đối, là quả vị Vô thượng Bồ đề, là Phật. Nương vào chân tâm bất sinh diệt để tu hành, tu mà không trước tướng, tu mà không tu, đó gọi là “tu liễu nghĩa”; chấm dứt sinh diệt, thể nhập thật tánh vạn hữu, giải thoát rốt ráo, đạt niết bàn tuyệt đối, gọi là “chứng liễu nghĩa”. Cả tu và chứng đều liễu nghĩa, gọi là “tu chứng liễu nghĩa”.

- Chư Bồ Tát Vạn Hạnh. Bồ-tát tu vô số hạnh, gọi tổng quát là “muôn hạnh”. Bồ-tát vận dụng trí tuệtừ bi, trên thì cầu đạo quả giác ngộ, dưới thì cứu độ chúng sinh, tự lợilợi tha gồm đủ, đó là “muôn hạnh của chư vị Bồ-tát”.

- Thủ Lăng Nghiêm. Ba chữ này là phần chủ yếu trong đề kinh. Chữ “thủ lăng” có nghĩa là tất cả đều rốt ráo; chữ “nghiêm” nghĩa là bền chắc. “Thủ-lăng-nghiêm” là tên một loại định, và đó là loại định lực rốt ráo, kiên cố, bao trùm tất cả các loại định khác, chỉ có chư vị Bồ-tát ở các bậc Thập-địa, Đẳng-giác và Phật (Diệu-giác) mới đạt được; bởi vậy, nó được gọi là “đại định”, hay “đại căn bản định”. Nó chính là chân tâm bản lai thanh tịnh, tịch tĩnh, thường hằng, không lay động, không tán loạn, không dời đổi, cho nên cũng được gọi là “Phật tánh”.

Định Thủ Lăng Nghiêm rộng lớn, sâu nhiệm, siêu việt thời giankhông gian, không thể đem tâm thức vọng tưởng phân biệt của chúng sinhnhận biết được, giống như tướng “nhục kế” trên đỉnh đầu của đức Phật (đại Phật đảnh), con mắt của chúng sinh phàm phu không thể trông thấy được.

Định Thủ Lăng Nghiêm là cái nhân sâu kín, từ đó mà phát khởi ra vô lượng công đức trí tuệ của chư Phật, và cũng từ đó mà chư Phật thành tựu đạo quả Bồ Đề Niết Bàn Vô Thượng; cho nên nó được gọi là “Như Lai mật nhân”.

Định Thủ Lăng Nghiêm là loại định rốt ráo, vô thượng, cho nên tu định này tức là tu pháp môn viên đốn (trọn vẹn, nhanh chóng), để chứng đạt tức thì đạo quả rốt ráo, tối thượng, gọi là “tu chứng liễu nghĩa”.

Chư vị Bồ-tát thực hiện muôn hạnh tự lợi, lợi tha hoàn toàn viên mãn đều do thành tựu được định Thủ Lăng Nghiêm này, cho nên định này cũng tức là “chư Bồ-tát vạn hạnh”.

Chân tâm thanh tịnh, tịch tĩnh, thường hằng, vốn sẵn có nơi chúng sinh. Nhưng vì chúng sinh mê lầm, không tự nhận biết được, si cuồng chấp có thân tâm ta và sự vật ở ngoài ta, chạy theo trần cảnh mà phát sinh phiền não, đắm trước, tạo ra vô số tội lỗi; rồi theo nghiệp lực, quả báoluân chuyển trong sinh tử luân hồi. Đức Phật thương xót, nói Kinh Thủ Lăng Nghiêm này để độ cho các chúng sinhcăn cơ cao, nhanh chóng phá trừ mê muội, dứt tuyệt phiền não, chứng nhập đại định Thủ Lăng Nghiêm, trực nhận bản tâm thanh tịnh thường trú, sáng suốt nhiệm mầu, đạt được địa vị Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Vị thính giả đương cơ để Phật nói Kinh Thủ Lăng Nghiêm này là tôn giả A Nan (hay A Nan Đà). Ngài là em chú bác của đức Phật, sau khi theo Phật xuất gia, được làm thị giả hầu cận Phật trong một thời gian dài, trở thành vị đệ tử được nghe Phật nói pháp nhiều nhất, đầy đủ nhất, và nhớ kĩ nhất, được mọi người tôn kính xưng là vị thánh tăng nghe nhiều hiểu rộng nhất (đa văn đệ nhất) trong tăng đoàn của Phật; và được liệt vào một trong mười vị đại đệ tử của Phật.

*

Dịch giả của bản kinh này là sa môn Bát Lạt Mật Đế(Pramiti, ?-?).Ngài là người Trung Thiên-trúc, trên đường viễn du hoằng pháp, đã mang nguyên bản Phạn văn của Kinh Thủ Lăng Nghiêm đến chùa Chế-chỉ ở thành phố Quảng-châu (tỉnh Quảng-đông, Trung-quốc) năm 705 (đời Đường), và dịch bộ kinh này ra Hán văn ngay năm đó.

Theo truyền thuyết, Kinh Thủ Lăng Nghiêm vốn được cất giữ ở Long cung. Nhân Bồ Tát Long Thọ (thế kỉ thứ 2-3 TL) xuống Long cung thuyết pháp, thấy trong kho có bộ kinh này, bèn lấy ra xem, cho đó là bộ kinh hi hữu. Ngài tụng thầm hết bộ kinh, và nhớ thuộc lòng. Trở về lại trú xứ, ngài chép bộ kinh ấy ra để trình lên quốc vương xin lưu truyền. Nhà vua cũng cho đó là Pháp bảo hiếm có, bèn ban lệnh cất vào kho, làm vật quốc bảo của Thiên-trúc, không những bị cấm mang ra khỏi nước mà còn bị cấm dạy cho các du tăng ngoại quốc đến Thiên-trúc tu học.

Kinh này khi chưa truyền đến Trung-quốc, thì tên của nó đã được người Trung-quốc nghe biết và kính ngưỡng rồi. Nguyên do là vì, một hôm nọ, một vị Phạn tăng lên núi Thiên-thai tham kiến đại sư Trí Khải (538-597), nghe đại sư giảng pháp môn “Chỉ Quán”, vị Phạn tăng rất bội phục, nói rằng: “Pháp môn Chỉ Quán do ngài phát minh ra rất gần với giáo nghĩa của Kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm ở Thiên-trúc!” Đại sư Trí Khải rất xúc động khi nghe vị Phạn tăng nói lên điều đó. Ngài muốn được nhìn tận mắt bộ kinh ấy để xem pháp môn Chỉ Quán của mình giống với lời dạy của đức Phật tới mức nào; hoặc có gì khác nhau. Ngài liền xây một cái đài ngay trên núi Thiên-thai, gọi là Bái-kinh đài; mỗi ngày đều hướng về phương Tây lễ lạy, cầu nguyện cho bộ kinh ấy được truyền sang Trung-quốc. Ngài đã lễ lạy như thế cho đến ngày viên tịch, ròng rã 18 năm, không một ngày gián đoạn! – Mà kinh ấy vẫn chưa đến! Việc này đã được loan truyền đi khắp nước.(Một thuyết khác nói rằng: Ngài Thiên Thai Trí Giả theo học đạo thiền sư Huệ Tư ở núi Nam-nhạc, đắc Pháp Hoa Tam Muội, thấy được pháp hội Linh-sơn nghiễm nhiên chưa tan. Từ đó xem Kinh, Luật hoát nhiên thông suốt. Đến khi ngài giải thích ý nghĩa sáu căn trong sạch trong kinh Pháp Hoa thì trầm ngâm rất lâu. Có một vị tăng người Ấn nói với ngài: “Chỉ có kinh Thủ Lăng Nghiêm là nói rõ ràng công đức của sáu căn, đủ để y chứng.” Từ đó ngài Trí Giả khao khát ngưỡng mộ. Suốt 16 năm, mỗi sáng tối hướng về phương Tây lễ bái. Ở phía trái chùa Thiên-thai ở núi Nam-nhạc vẫn còn đài kinh... Kinh Lăng Nghiêm Tông Thông, Nhẫn Tế thiền sư dịch.)

Mãi cho tới đầu thế kỉ thứ 8, ngài Bát Lạt Mật Đế mới đem Kinh Thủ Lăng Nghiêm truyền đến Trung-quốc. Nguyên vì bấy giờ bộ kinh ấy bị cấm truyền ra khỏi Ấn-độ, nên các trạm gác biên giới kiểm soát rất gắt gao, ngài phải đem bộ kinh ấy đi ba lần mới qua lọt biên giới. Hai lần đầu, dù ngài dấu kĩ đến thế nào, các quan viên biên phòng vẫn khám xét ra. Vì là người xuất gia, ngài đã không bị xử phạt, nhưng vẫn bị đuổi về, không cho đi ra khỏi nước. Tuy vậy, ngài vẫn quyết chí đi nữa. Lần này, không còn cách nào khác, ngài bèn chép lại bản kinh ấy với chữ thật nhỏ, trên những miếng da thật mỏng, cuộn lại, rồi xẻ bắp tay của chính mình ra, nhét bộ “kinh da” vào trong đó, và may kín lại. Đợi cho đến khi vết thương hoàn toàn lành lặn, ngài lại ra đi. Lần này thì bộ kinh đã không bị khám phá, cho nên ngài đã được phép rời Ấn-độ. Ngài theo đường hàng hải, đến Quảng-châu (Trung-quốc) vào năm 705 (đời vua Đường Trung-tông). Sau khi gặp được chư tăng ở chùa Chế-chỉ, Quảng-châu, ngài mới cho biết là ngài đã mang được bộ Kinh Thủ Lăng Nghiêm đến đây. Ai nghe cũng đều vui mừng, vì đó là điều mọi người từng mong đợi từ hơn trăm năm nay. Khi được hỏi bộ kinh ở đâu, ngài mới rạch cánh tay theo vết may cũ, lấy bộ “kinh da” từ trong ấy ra. Máu chảy dầm dề, phải rửa thật sạch sẽ, bấy giờ bộ kinh mới hiện ra tỏ rõ. Liền đó, bộ kinh đã được dịch ra Hán văn ngay tại chùa Chế-chỉ. Sau khi bộ kinh này được dịch xong, ngài liền xuống thuyền trở về Thiên-trúc để chịu tội với vua, vì đã trái lệnh, tự ý đem Kinh Lăng Nghiêm truyền sang Trung-quốc.

*

Bộ Kinh Thủ Lăng Nghiêm này, tại Trung-hoa, từ các đời Đường, Tống đến nay, đã có hàng trăm nhà chú giải. Khi có ý định dịch bộ kinh này ra Việt ngữ, chúng tôi may mắn có được quyển Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh Giảng Nghĩa của pháp sư Viên Anh (1878-1953, người Phúc-kiến, Trung-quốc), vì vậy, chúng tôi đã y theo phần “chánh văn” trong tác phẩm này để dịch; và phần “giảng nghĩa” của pháp sư cũng giúp ý cho chúng tôi rất nhiều trong lúc dịch. Ngoài ra, chúng tôi cũng tham khảo hai bản Việt dịch khác của hai bậc dịch giả tiền bốichúng tôi đang có trong tủ sách gia đình, đó là bộ Kinh Thủ Lăng Nghiêm của bác sĩ Tâm Minh LÊ ĐÌNH THÁM (1897-1969, người Điện-bàn, Quảng-nam, VN) dịch, và bộ Kinh Lăng Nghiêm Tông Thông của thiền sư NHẪN TẾ (1889-1951, chùa Tây-tạng, Bình-dương, VN) dịch.

Bộ Kinh Thủ Lăng Nghiêm, trong nguyên bản Hán văn, được chia làm 10 quyển, nhưng không có tiêu đề cho mỗi quyển. Nay dịch ra Việt văn, chúng tôi xin mạo muội đặt tiêu đề cho mỗi quyển ấy, để quí vị đồng tu nắm được ý tổng quát của nội dung từng quyển trong khi đọc tụng.

*

Ý Kinh cao sâu mầu nhiệm, biển học mênh mông, mà khả năng hiểu biết của chúng tôi thì quá cạn cợt, cho nên sự diễn đạt chắc chắn có lắm sai sót. Chúng tôi rất mong nhận được sự chỉ giáo của các bậc thiện tri thức cao minh.

Việc dịch kinh này ra tiếng Việt, nếu có được chút ít công đức nào, xin thành tâm nguyện đem hồi hướng cho chúng sinh, tiêu trừ vọng tưởng, tăng trưởng lòng tin thanh tịnh, sớm thành tựu đạo quả Vô Thượng Bồ Đề.

Nam Mô Thập Phương Thường Trụ Tam Bảo

tác đại chứng minh

Cung kính giới thiệu,

Miền Tây Gia-nã-đại, mùa An Cư năm 2011

Cư sĩ HẠNH CƠ

CUNG BẠCH


Con chí thành đảnh lễ

Đức Thích Ca Thế Tôn

Đấng Vô Thượng Pháp Vương

Bậc Đạo Sư ba thừa

Cha Lành khắp ba cõi

Vì thương đàn con dại

Nói kinh Thủ Lăng Nghiêm

Chỉ bày thật rõ ràng

Đâu là tâm chân thường

Đâu là nguồn vọng tưởng

Khiến cho ngàn vạn ức

Các thính chúng hiện tiền

Chứng ngộ tánh Bồ Đề

Thoát luân hồi sáu nẻo

Để báo đáp ơn Phật

Nay con xin phát tâm

Dịch kinh Lăng Nghiêm này

Ra ngôn từ nước Việt

Mong truyền bá rộng rãi

Trong Phật tử Việt-nam

Được cơ duyên hành trì

Thắp sáng đèn trí tuệ

Lời Phật cao sâu quá

Tâm con còn tối tăm

Chắc chắnsai lầm

Cúi lạy đức Thế Tôn

Xin xót thương tha thứ

Con nguyện cùng thiện hữu

Siêng năng thường đọc tụng

Bỏ vọng tưởng đảo điên

Về bản tâm chân thường

Nếu có chút phước đức

Xin nguyện đem hồi hướng

Cho chúng sinh và con

Phiền não sạch nghiệp tiêu

Chóng lên bờ giải thoát

Nam Mô Hiện Tọa Đạo Tràng Thuyết Kinh Giáo Chủ

Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Nam Mô Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh

Nam Mô Khải Giáo A Nan Đà Tôn Giả

Miền Tây Gia-nã-đại, mùa An Cư năm 2011

Ưu-bà-tắc giới đệ tử Hạnh Cơ

kính lạy

Xem bản PDF


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 26259)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 27571)
Nội dung kinh này thuyết minh về Như lai tạng, quả đức của Phật. Nói rõ hành giả đoạn trừ phiền não nào, để chứng đắc Nhị thừa quả... HT Thích Đức Niệm dịch
(Xem: 27956)
Sa-môn Gotama từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. - Này các Tỷ-kheo, đó là lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
(Xem: 26751)
Tác phẩm của Tiến sĩ Thích Minh Châu có nhiều khám phá đáng ngạc nhiên. Ông đã chứng minh rằng bản kinh A-hàm (Àgama) bằng chữ Hán và bản kinh bộ Pàli (Pàli Nikàya) này có rất nhiều điểm tương đồng và cũng khá nhiều dị biệt.
(Xem: 31270)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20315)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22999)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30114)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21643)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20320)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 22708)
đệ tử Phật thì nên hết lòng, ngày cũng như đêm, đọc tụngquán niệm về tám điều mà các bậc đại nhân đã giác ngộ... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 20813)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 30379)
Trong thành Vương Xávị cư sĩ tên Hiền Hộ là bực thượng thủ năm trăm vị cư sĩ, các vị nầy đều thọ trì năm giới gìn giữ từ cử chỉ nhỏ nhặt...
(Xem: 28840)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34783)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 44264)
Kinh BÁCH DỤ gồm gần một trăm câu truyện ngụ ngôn đầy sinh độngsúc tích ẩn tàng các giá trị triết lý giáo dục nhân sinh do Đức Phật kể ra để dạy về giáo lýgiáo pháp.
(Xem: 35569)
KINH PHÁP CÚ là cuốn Kinh chọn lọc những lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế. Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ...
(Xem: 22592)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21412)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 20721)
Như Lai nơi nhân địa tu theo tự tánh Viên Giác, chiếu soi bản thể của tự tánh vốn tịch diệt, biết rõ thân tâm thế giới như hoa đốm trên không... Thích Hằng Đạt dịch
(Xem: 24807)
Nguyên văn chữ Hán của Kinh Viên Giác chỉ có hơn mười ba ngàn chữ mà bao gồm tất cả giáo pháp đốn tiệm của thượng cănhạ căn... HT Thích Duy Lực dịch
(Xem: 37985)
Kinh Hoa Nghiêmbộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân, tư tưởngtâm nguyện của Phật.
(Xem: 19102)
Dưới đây là bảng tóm tắt so sánh các bộ Luật Tỳ-kheo hiện đang lưu hành - Bình Anson
(Xem: 19378)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 21867)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0365 - Hán dịch: Lương Da Xá; Việt dịch HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 20906)
CỔ NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích - Việt dịch: Sa-môn THÍCH ÐỔNG MlNH - Nhuận văn và chú thích: Sa-môn THÍCH ÐỨC THẮNG
(Xem: 29560)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35215)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28869)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 32638)
Hết thảy nội dung được đề cập đến trong tập sách này đều được thể hiện một cách vô cùng sáng tạo, linh hoạt, với rất nhiều ví dụ thích hợp luôn luôn đi kèm theo mỗi vấn đề...
(Xem: 26275)
Bốn tâm vô lượng là cõi nước thanh tịnh của Bồ Tát, khi Bồ Tát thành Phật, những chúng sinh thành tựu các đức từ, bi, hỷ, xả sinh về nước ấy... Đoàn Trung Còn, Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 28978)
Nhất thời, Phật tại Tỳ-da-ly, Am-la thọ viên, dữ đại tỳ-kheo chúng bát thiên nhân câu. Bồ Tát tam vạn nhị thiên, chúng sở tri thức.
(Xem: 43199)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 35001)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 44016)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37950)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21364)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 43076)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 49055)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39902)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53836)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36861)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40862)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49779)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47382)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27795)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 27060)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27258)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24106)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20888)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34350)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22522)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25166)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
(Xem: 25906)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 22998)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22516)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21785)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23359)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21211)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
(Xem: 29920)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant