Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Luận Tụng Kinh Năng Đoạn Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa

17 Tháng Ba 201511:30(Xem: 12735)
Luận Tụng Kinh Năng Đoạn Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa

LUẬN TỤNG KINH NĂNG ĐOẠN KIM CƯƠNG
BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA


Tập 25, Thích Kinh Luận Bộ ,số 1514, 1 quyển, Năng Đoạn Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh Luận Tụng,
Vô Trước Bồ Tát tạo Đường Nghĩa Tịnh dịch, Nguyên Huệ Việt dịch

Luận Tụng Kinh Năng Đoạn Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa

Lợi ích thắng, nên biết
Nơi thân cùng quyến thuộc
Đạt, chưa đạt, không thối
phó chúc tối thắng.
Nơi tâm rộng, hơn hết
Tột cùng không điên đảo
Lợi ích chốn ý lạc
Thừa nầy công đức đủ.
Sáu độ đều gọi Thí
Do tài, pháp, vô úy
Trong đó, một, hai, ba
Gọi tu hành chẳng trụ.
Vì tự thân báo ân
Quả báo đều không chấp
Là lìa nơi chẳng khởi
Cùng lìa các hành khác.
Thâu phục nơi ba Luân
Nơi tướng, tâm trừ dứt
Các nghi hoặc về sau
Theo đời thảy đều diệt.
Nếu dùng để hợp tạo
Diệu tướng phi thắng tướng
Ba tướng dời đổi khác
Không đấy, tức Như Lai.
Nhân cùng quả sâu xa
Nơi ác kia khi nói
Đây chính là lợi ích
Do ba Bồ-tát khác.
Từ nơi chốn Phật trước
Phụng trì về giới học
Và gieo trồng thiện căn
Gọi đủ giới đủ đức.
Hay đoạn trừ tưởng ngã
Cùng do nơi tưởng pháp
Đây gọi là đủ tuệ
Hai, bốn khác thành tám.
Thể riêng nối tiếp khởi
Đến thọ mạng hết, trụ
Lại cầu tìm cõi khác
Tưởng ngã có bốn thứ.
Đều không nên chẳng có
Có nên chẳng thể nói
Là nêu bày về nhân
Tưởng pháp có bốn thứ.
Do lực tin hiểu kia
Tin nên sinh tưởng thật
Chẳng như lời chấp giữ
Chấp giữ cho chánh thuyết.
Phật rõ quả không đối
Do nguyện trí nên biết
Vì cầu sự lợi, kính
Ngăn chỗ tự nêu ấy.
Chứng chẳng trụ nơi pháp
Đó chính là tùy thuận
Cũng như bỏ bè kia
ý mật nên biết.
Hóa, thể không Phật thật
Cũng không người nói pháp
Thuyết pháp không hai thủ
Chỗ nói lìa giảng nêu.
Tự thọ vì khác, nói
Hợp phước không vô ích
Phước không giữ Bồ-đề
Hai ấy đều nên giữ.
Đạt nhân của tự tánh
Phần khác ấy là sinh
Nên chính là pháp Phật
Hay thành phước tối thắng.
Không giữ lấy tự quả
Phi có thể giữ, nói.
Giải thoát nơi hai chướng
Nói Diệu Sinh không tranh.
Tại nơi Phật Nhiên Đăng

Nói không giữ, pháp chứng

Do đấy pháp chứng thành

Không nơi giữ chốn nói.

Trí động, chỉ tánh thức

Quốc độ không chỗ giữ

Vô hình nên hơn hẳn

Không nghiêm cho tánh nghiêm.

Ví như núi Diệu Cao

Nơi thọ dụng không lấy

Tánh không phải hữu lậu

Cũng không là nhân tạo.

Vì hiển nhiều sai biệt

Cũng do thành thù thắng

Trước sau phước chẳng đồng

Lại nêu ra dụ nói.

Hai thành nên tôn trọng

Do đẳng lưu trội bật

Do tánh nhân phiền não

Nên kém cũng thành hơn.

Quả kia hơn hẳn khổ

Khó gặp được việc thắng

Cảnh, cõi không phải biết

Nơi phần khác chẳng cùng.

Tánh ấy rất sâu xa

Hơn khác, lược giảng giải

Tộc họ vốn cao, hơn

So phước, phước hơn hẳn.

Hành ấy khi gắng nhẫn

Tuy khổ nhưng hành thiện

Đức kia khó lường xét

Do đấy gọi thắng sự.

Do tình không giận dữ

Không gọi là tánh khổ

an lạc, đại bi

Lúc hành, không quả khổ.

Nhân sinh tâm không bỏ

Vì thế nên dốc cầu

Tức là đạt nhẫn biên

Cùng phương tiện tâm ấy.

Nên biết kẻ chánh hành

Là nhân của lợi sinh

Nơi sự tướng hữu tình

Nên biết dứt trừ khắp.

Sự kia là tên tụ

Hơn hết, trừ bỏ tưởng

Các Thế Tôn không đấy

Do thấy đúng tương ưng.

Quả chẳng trụ vị nhân

Là đạt nhân quả kia

Thế Tôn nói lời thật

Nên biết có bốn thứ.

Lập nên nói thừa dưới

Cùng nêu nghĩa Đại thừa

Do các việc thọ ký

Đều không có sai biệt.

Không đạt chỗ thuận kia

Trái phải thật không vọng

Như lời mà chấp giữ

Đối ứng nên tuyên thuyết.

Thường hằng các xứ có

Nơn chân tánh không đạt

Do không tỏ, có trụ

Trí vô trụ đạt thật.

Không trí cũng như tối

Nên trí tối hoặc sáng

Chủ đối cùng chỗ trị

Được mất đều hiện tiền.

Do chánh hành như thế

Đạt lượng phước như vậy

Nơi pháp, kẻ chánh hành

Nghiệp dụng nay sẽ nói.

Đối người có ba thứ

Thọ trì, nghe, nói rộng

Nghĩa đạt do kẻ khác

Cùng nghe, nghĩ của mình.

Đây là thành thục nội

Còn thành hữu tình khác

Do sự khi tánh lớn

So phước, phước hơn hẳn.

Không cảnh, tánh, riêng tánh

Chủ dựa là đại nhân

Cùng khó có thể nghe

Nhân vô thượng tăng trưởng.

Nếu chỉ giữ chánh pháp

Chốn sở y thành vật

Dứt trừ các nghiệp chướng

Mau đạt trí thông tánh.

Thế diệu sự viên mãn

Quả báo rất tôn quý

Nơi pháp nầy tu hành

Nên biết đạt nghiệp ấy.

Do lúc tự thân hành

Xem mình là Bồ-tát

Gọi tên là Chướng Tâm

Trái với tâm không trụ.

Thọ ký nơi thời sau

Nhiên Đăng hành không hơn

Bồ-đề hành kia đồng

Không thật do nhân tạo.

Không tướng kia là tướng

Nên hiển chẳng là vọng

Do pháp là pháp Phật

Đều không có là tướng.

Là do Pháp thân Phật

Nên biết dụ trượng phu

Thân tròn đủ không chướng

Là tánh hiện đủ khắp.

Cùng đạt được Thể lớn

Cũng gọi là Thân lớn

Không có thân là có

Nói tạo kia không thân.

Chẳng rõ nơi pháp giới

Tâm tạo độ chúng sinh

Cùng đất ruộng thanh tịnh

Đấy gọi là cuồng vọng.

Nơi Bồ-tát, chúng sinh

Các pháp không tự tánh

Nếu hiểu tuy không Thánh

Gọi Thánh tuệ, nên biết.

Tuy không thấy các pháp

Đây chẳng không có mắt

Phật gồm đủ năm thứ

Do nơi cảnh hư vọng.

Các thứ tâm lưu chuyển

Lìa nơi các niệm xứ

Tâm không giữ luôn chuyển

Nên gọi là hư vọng.

Nên biết trí ấy giữ

Phước mới không hư vọng

Hiển bày nhân phước ấy

Lại nêu dụ lần nữa.

Tức nơi chân Pháp thân

Không tướng hảo viên mãn

Cũng không là tướng đủ

Tánh không thân nên biết.

Nơi Pháp thân không riêng

Không Như Lai, không hai

Lại nói tướng đủ kia

Do hai Thể đều không.

Như Phật nói cũng không

Nói hai là chỗ chấp

Do không lìa pháp giới

Nói cũng không tự tánh.

Năng thuyết sở thuyết tuy thâm diệu

Nhưng cũng chẳng phải không kính tin

Do phi chúng sinh, phi phi sinh

Phi Thánh nên tánh Thánh tương ưng.

Ít pháp nên không có

Vô thượng giác, nên biết

Do pháp giới không tăng

Tánh bình đẳng, thanh tịnh.

Cùng phương tiện vô thượng

Do tánh lậu, phi pháp

Vì thế chẳng pháp thiện

Do đấy gọi là thiện.

Nói pháp tuy vô ký

Không chẳng được, nên biết

Do một pháp bảo nầy

Hơn vô lượng báu kia.

Nơi các loại toán, thế

Nhân cũng có sai khác

Tầm tư nơi thế gian

Dụ chỗ không sánh kịp.

Pháp giớibình đẳng

Phật không độ chúng sinh

Nơi các tên cùng tụ

Chẳng ở ngoài pháp giới.

Nếu khởi nơi pháp chấp

Cùng ngã chấp hơn, đồng

Định chấp thoát hữu tình

không chấp vọng chấp.

Chẳng nên dùng thể sắc

Chỉ Pháp thân Như Lai

Chớ khiến Chuyển luân vương

Cùng Như Lai ngang nhau.

Tức quả báo tướng đủ

Phước viên mãn không nhận

Có thể tạo Pháp thân

Do phương tiện tánh khác.

Chỉ thấy sắc, nghe tiếng

Người ấy chẳng biết Phật

Pháp thân, chân như nầy

Chẳng phải cảnh giới Thức.

Phước kia không hề mất

Quả báo không đoạn tuyệt

Được nhẫn cũng không đoạn

Do đạt không cấu nhiễm.

Lại luận về nhân phước

Vì đây nêu dụ kia

Phước ấy không có báo

Chính nhận, không nhận vượt.

Phước kia tạo quả hóa

Tạo lợi ích hữu tình

Sự ấy do tự nhiên

Thành Phật hiện các phương.

Đến, đi cũng là hóa

Chánh giác luôn chẳng động

Đối nơi chốn pháp giới

Chẳng một, khác nên biết.

Vi trần đem làm mực

Dụ hiển bày pháp giới

Luận ấy tạo sự mực

Làm rõ phiền não tận.

Tánh không tụ không hợp

Hiển thị phi một tánh

Nơi tánh hợp chung kia

Rõ tánh chẳng phải khác.

Chẳng rõ chỉ lời tục

Các phàm phu vọng chấp

Đoạn hai thứ ngã, pháp

Đó gọi là chứng giác.

Vì thế kiến, không kiến

Không cảnh, chấp hư vọng

Do đấy là chướng tế

Biết như vậy nên đoạn.

Do đạt hai thứ trí

Cùng định, mới dứt trừ

Nêu phước rõ Hóa thân

Phước vô tận chẳng không.

Lúc chư Phật thuyết pháp

Không nói thân là hóa

Chính do không tự nói

Nên là nói chân thật.

Như Lai chứng Niết-bàn

Không tạo cũng chẳng khác

Hợp tạo ấy có chín

Dùng chánh trí để quán.

Tướng kiến cùng với thức

Nơi ở thân thọ dụng

Quá khứ cùng hiện còn

Chưa đến, quan sát rõ.

Do quán xét về tướng

Thọ dụng cùng đổi dời

Ở trong sự hữu vi

Đạt tự tại vô cấu.

HẾT

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 23965)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41222)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19700)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 23998)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21748)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23314)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27509)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26577)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29319)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33200)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20202)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25782)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20918)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31324)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38580)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21445)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44265)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29834)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42220)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22142)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45769)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32113)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23961)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24393)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29283)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33922)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27684)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32137)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21066)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28857)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21587)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28068)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22075)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21442)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19503)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19471)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19837)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19255)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29192)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20627)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28305)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23651)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33193)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31844)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21378)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39631)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21554)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19382)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26400)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24832)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21759)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22397)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29136)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22561)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20471)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23520)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21241)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35330)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24548)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
(Xem: 31347)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant