Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Bát Nhã Tâm Kinh Giảng Giải

19 Tháng Giêng 201511:45(Xem: 12091)
Bát Nhã Tâm Kinh Giảng Giải


BÁT NHÃ TÂM KINH GIẢNG GIẢI


Sư Cô Như Thuỷ Giảng
Nguyễn Minh Huấn và Minh Quang lập thành văn tự

BÁT NHÃ TÂM KINH GIẢNG GIẢIBuổi sáng, chúng ta mới học qua tiểu-sử các vị thánh-ni thời Phật. Những bài sớm mai chúng ta học có tính-cách giống như chúng ta học một người bệnh nặng được đưa vào bệnh-viện, sau thời-gian nằm bệnh-viện đã hết bệnh mà còn trở về thành bác-sĩ nữa. Ở đây chúng ta chỉ học tóm-tắt cuộc đời của các ngài thôi mà hoàn toàn chúng ta không biết là các ngài đã trị-liệu bằng cách nào, thì chiều nay chúng ta sẽ học cái cách các vị đó uống thuốc mau hết bệnh, lại còn có thể trở thành bác-sĩ nữa; thì cái cách đó là chúng ta áp-dụng bài kinh Bát-nhã.

Trước hết, tôi xin giới-thiệu vị-trí của Bát-nhã trong văn-học của Phật-giáo.

Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.

Tôi có nói hồi sớm mai cái quý nhất trên thế-gian này là trí-huệ; tức là một người dầu đẹp, dầu giàu, dầu trẻ hay khỏe mạnh cách mấy mà nếu trí-huệ người đó không có thì giá-trị của người đó cũng không còn. Sở dĩ con người hơn vạn-vật là nhờ có trí-huệ; để phục-hồi cái trí-huệ đó thì nhà Phật có cách tu là làm sao cho chúng ta càng ngày càng sáng suốt và minh-mẫn; và mọi thành-quả tốt đẹp nhất trên thế-gian này đều là sản-phẩm của trí-huệ, cho nên trí-huệ được coi là "mẹ của chư Phật", tức là chư Phật cũng nhờ đó mà được giác-ngộ. Thành ra cái học tu của nhà Phật là lấy trí-tuệ làm sự-nghiệp.

Bài kinh Bát-nhã này thuộc về hệ đại-thừa; mà hệ đại-thừa và hệ nguyên-thủy khác nhau như thế nào?

Hồi thời Phật còn tại thế, chúng ta không biết chư tăng và chư ni tu ra sao, mà chỉ biết sau đó có một số kinh-điển còn để lại; cái số kinh-điển còn để lại đầu tiên đó gọi là hệ nguyên-thủy. Sau hệ nguyên-thủy có cái hệ gọi là bộ-phái, tức là mỗi địa-phương tùy theo căn-cơ, tùy theo quốc-độ, có những lối tu khác nhau, cho nên có đến hai chục trường-phái.

Sau đó, đến cái thời cách đây khoảng hai ngàn năm - tức là sau Phật chừng năm hoặc sáu trăm năm - thì chúng ta thấy có một phong-trào là làm sao áp-dụng Phật-giáo mở rộng ra cho tất cả mọi người cùng tu chớ không phải chỉ dành cho một thiểu-số không bận bịu gia-duyên. Như hồi sớm mai quý vị đã theo dõi lịch-sử các vị thánh-ni thì thấy các vị này khi đi tu đều không có gia-đình, không có phụ-tùng, chỉ vô rồi nghe tu một mình mình; cũng không nghe nói đến chuyện các ngài đã giáo-hóa độ-sinh ra sao, và hoàn toàn chúng ta không thấy đề-cập đến cái đời sống của người tu-sĩ tại-gia là có thể tu bằng cách nào? Nhưng mà ở đây, thời đại-thừa, ...... cái giải-pháp đó có thể áp-dụng cho mọi tầng lớp mọi người dân-chúng, tức là không kể địa-phương, không kể tuổi tác, không kể nam nữ, không kể tăng hay tục, mà khi áp-dụng đều có kết-quả như nhau hết.

Và cái bài kinh quan-trọng nhất trong hệ bát-nhã, coi như tóm tắt đại-ý, thì thuộc về văn-học của thời đại-thừa.

Kinh dịch từ chữ Phạn sang chữ Hán thì do ngài Đường Huyền-trang dịch từ năm sáu trăm bốn chín - nghĩa là cách đây hơn một ngàn ba trăm năm - nó gồm tất cả hai trăm sáu mươi chữ, và vị nào hay tụng trong thiền-viện là thuộc lòng hết rồi; mà ngay đến chúng tôi, tôi cũng thuộc. Tôi thuộc bài kinh này vào năm tôi mới có sáu tuổi, và đến khi tôi bắt đầu đọc tụng, tức là khi tôi vô chùa tu - tức là năm mười lăm, mười sáu tuổi - thì tôi đã thuộc nằm lòng thêm những bộ kinh khác; và tôi thấy có một điều là khi chúng tôi vô chùa tu thì cái điều-kiện để tu mà trong chùa bắt buộc là mình phải thuộc hai thời công-phu, chú Lăng-nghiêm, thuộc kinh Di-đà, thuộc kinh Phổ-môn.

Nhưng mà cái thuộc của chúng ta nó không dính líu gì đến cái trị-liệu và áp-dụng hết; cho nên tôi có mấy người bạn rất thông-minh và rất ham tu, khi vô chùa xin tu, thì trong chùa mới đưa ra hai thời công-phu - tức là đưa ra một số kinh phải học thuộc lòng - và các vị đó học một thời-gian, ngán quá, rồi bỏ cuộc hết! Mà trong khi đó, nếu chúng ta áp-dụng, thì chỉ một bản kinh Bát-nhã là áp-dụng cả đời thôi.

Tôi đưa ra thí dụ này để quý vị thấy: chẳng hạn như có người bị đau bụng, có người bày cho mình thế này:

Người đó nói rằng: "Có một bà đó tên là Nguyễn thị Ba, bà Ba đó vì đau bụng cho nên được ông thầy thuốc cho một toa thuốc, toa thuốc đó gồm những vị thuốc như sau:... rồi bà đó về nhà, bà uống thuốc một thời-gian thì hết đau bụng."

Cái toa thuốc sau khi được truyền miệng từ người này qua người khác thì được chép thành văn, và người bệnh-nhân đau bụng đó cầm cái toa thuốc đọc, một ngày đọc ba lần, và sau nữa tăng lên ngày đọc sáu lần, cho đến khi đọc cả trăm lần, nhưng mà bụng vẫn đau, cho nên sau một thời-gian người đó bỏ cuộc!

Tại sao người này đọc cái toa thuốc mà không hết bịnh? Là vì quý vị biết cái bịnh ở đây là phải uống thuốc chứ không phải đọc toa thuốc, nên chúng ta có đọc hàng trăm hàng ngàn lần vẫn không hết đau.

Ở đây cũng vậy, những bản kinh là giới-thiệu chúng ta một cái toa thuốc người xưa đã tu và áp-dụng kiểu nào mà họ được bớt phiền-não; mà chúng ta thì chỉ đọc toa thuốc, do đó mà chúng ta không được thiện-nghiệp, và càng ngày chúng ta càng thấy toa thuốc này ngán quá, hoặc coi như nó không thể kham. Người khác giới-thiệu một cái toa thuốc hay hơn nữa thì chúng ta kiếm nhiều toa thuốc thôi; cái bệnh đó là cái bệnh mà hồi sớm mơi Phật rầy ngài Bá-da là dù nói ngàn hàng, thuộc hàng ngàn bài kệ, mà không chút lợi-ích, không bằng nghe xong một lời mà được tịnh-lạc.

Cái toa thuốc chiều nay thì tôi thấy là thầy đã có bản kinh mà quý vị ghi lại; bài giảng của thầy về bài kinh Bát-nhã thì tôi thấy tôi không có đủ sức để mà giảng hay hơn, hay là rõ hơn; có điều tôi giảng bài kinh là theo kinh-nghiệm tu của tôi, tôi thấy như thế nào, và tôi uống thuốc ra sao thì tôi bày cho quý vị.

Thành ra cái bài kinh này tôi nhấn mạnh về cái phương-diện thực-hiện, nó nằm ở cái căn-cơ khi tôi còn là cư-sĩ, đến khi tôi bắt đầu xuất-gia tôi áp-dụng tu ra sao, và khi theo thầy tôi tu ra sao mà tôi thấy hết bịnh; thành ra bài này là cái bài cũng lấy từ toa thuốc của Đức Phật mà tôi cũng nghiên-cứu uống và thấy nó có giảm đau thì tôi nói theo cái kinh-nghiệm của một người uống thuốc, của một người uống thuốc, chớ không phải kinh-nghiệm của người quảng-cáo toa thuốc.

Quý vị nào muốn tìm hiểu rộng hơn thì đọc bài Bát-nhã Tâm-kinh của thầy giảng, còn ở đây tôi chỉ giảng trong cái phương-diện uống thuốc thôi.

Mở đầu bản kinh chúng ta sẽ thấy có những văn-tự như thế này (bản kinh này tôi chia ra làm ba phần như toa thuốc vậy):

1- Có một vị Bồ-tát tên là Quán-tự-tại; vị này do dùng trí-huệ bát-nhã soi thấy năm uẩn là không cho nên ngài vượt qua tất cả khổ. Giống hệt như là cái toa thuốc nói rằng "có một người tên là Nguyễn-thị-Ba trúng đau bụng, bà này mới dùng cái toa thuốc gồm những vị như sau này... sau thời-gian thì bà được hết bịnh", tức là lời giới-thiệu.

2- Rồi sau đó Phật phân-tích là cái toa thuốc có những cái gì.

3- Cuối cùng Phật khuyến-khích chư vị Bồ-tát đều nhân nơi cái trí-huệ Bát-nhã này mà được thành Phật; đó là lời khuyến-khích của Ngài.

Tôi phân đoạn như trên đây.

TRƯỚC HẾT MÌNH ĐI THEO LỜI GIỚI-THIỆU CỦA PHẬT.

Đầu tiên, vì sao chúng ta đi chùa, vì sao chúng ta tu?

Quý vị thấy, cái giai-đoạn ấu-thơ, tức là thời con nít, cái thời mà coi như sung sướng nhất của một đời người, là hoàn toàn chúng ta không thắc-mắc mình sinh ra để làm gì, hoặc chết rồi đi về đâu, gì hết! Nhưng khi lớn lên, bắt đầu va chạm với những cảnh khổ của thế-gian, khi đó chúng ta mới có những cái bức-xúc, những cái quằn-quại, những cái khổ mà không ai giải-quyết, và do đó chúng ta mới đi tìm bằng cách gõ cửa tôn-giáo.

Thành ra có lần thầy dạy chúng tôi "Nếu tụi con sống hoài không chết có lẽ là tụi con khỏi tu, mà nếu chết rồi không tái-sinh thì chúng ta cũng khỏi tu."

Chúng ta biết, bây giờ cái thân nhứt của chúng ta là cái thân này mình sẽ bỏ đi, và cái thân thứ hai là thân-quyến cũng sẽ từ-giã ra đi, và lúc lâm-chung mình đi một mình, không tiền không của, không bà con bậu bạn gì hết, giờ phút đó ra sao chúng ta không biết!

Luôn luôn chúng ta phát tâm tu, học đạo là do chúng ta chạm đến cái khổ đầu tiên hết mà trong nhà Phật gọi là "bát khổ" - vị nào theo dõi những bài học trước thì có nhớ - bài học Tứ-đế.

Trong bát khổ có chia ra khổ thứ nhứt là khổ thân, khổ thứ hai là khổ tâm. Thì cái thân của chúng ta có một sự bất kể nam nữ già trẻ, sang hèn giàu nghèo, chúng ta đều bị chi-phối bởi những cái khổ:

1- thứ nhứt là sinh, thì cái khổ mình đã vượt qua rồi.

2- thứ hai là cái già, thì cái già này không phải là người lớn tuổi mới già, mà thật ra cái thân xác của chúng ta già cỗi trong từng hơi thở, phải không? Người năm tuổi già hơn lúc ba tuổi, hai mươi tuổi già hơn lúc mười tuổi, và năm mươi già hơn lúc bốn mươi chẳng hạn, có nghĩa là thay đổi trong từng giây phút, thì đó là cái khổ thứ hai.

3- thứ ba nữa là cái bệnh, cái bệnh này không phải sau khi già rồi mới bệnh mà lúc nào cũng có thể bệnh được.

4- rồi cuối cùng là cái chết.

Đó là cái khổ chi-phối cái thân của mình.

Bây giờ về tâm thì chúng ta có những khổ như sau:

5- thứ nhứt là "ái-biệt-ly", những người mà mình thương mình phải xa lìa, xa vì chết hoặc là xa đời sống sinh-ly.

6- thứ hai là những người mình ghét, là "oán-tắng-hội" là những người mình không ưa mà cứ phải gặp mặt hoài, không thích. Trong kinh Phật có dạy thương phải chia lìa cũng khổ, ghét mà phải gặp cũng rầu; thành ra "oán-tắng-hội" là những người mình không ưa mà cứ phải gặp hoài, cứ phải ở chung, thì đây cũng là cái khổ.

7- thứ ba là "cầu-bất-đắc", có nghĩa là những cái mà chúng ta cầu, chúng ta ước mong, đều cũng không được, cho nên đó là cái khổ thứ ba.

8- còn cái thứ tư là cái khổ theo danh-từ là "ngũ-ấm xí thạnh", thì cái này chúng tôi được nhiều người giảng song không hiểu rõ; nhưng thứ năm vừa rồi thầy có giảng về "ngũ-ấm xí thạnh" rất là hay; "xí" là lẫy lừng, "thạnh" cũng là lẫy lừng, coi như nó hợp và mạnh, chữ Nho nó vậy thôi. Nhưng cái chữ "ngũ-ấm" này là cái thân gồm có xác thân mình - là sắc, thọ, tưởng, hành, thức - mà ta gặp trong bài kinh Bát-nhã này, ở đây thầy chỉ giảng giản-dị là ngay khi có thân tâm nó là khổ rồi; giống như Lão-tử nói là sở dĩ mình có tất cả tai-họa xảy ra là vì mình có thân, chứ nếu mình không có cái thân và tâm này thì tai-họa do đâu mà có! Như vậy thì cái khổ của chúng ta là đã cưu mang một cái xác thân mà không được vừa ý, cho nên ở trong này có chỗ nói "ngũ-ấm xí thạnh" là năm cái ấm này nó chống trái nhau cho nên nó làm chúng ta khổ; mà riêng thầy hôm trước - thứ năm này - giải-thích cho chúng tôi thấy "ngũ-ấm xí thạnh" là mang cái thân này tự bản-chất nó đã là khổ rồi chớ khỏi cần cái khổ thêm gì hết nữa.

Như vậy, chúng ta thấy vì khổ nên chúng ta mới tìm cách học đạo. Nhưng mà khi học sử các vị thánh tăng, thánh ni, thấy là khi các ngài chứng đạo thì các ngài chỉ nói là "sinh đã tận, việc làm đã xong" coi như là dứt khổ và được niết-bàn; vậy thì chúng ta trong khi học đạo, chúng ta làm sao để có thể trừ cái khổ này?

Nhà Phật có đưa ra một cái giải-thích như thế này:

Quý vị nhớ, ngài Xá-lợi-Phất là vị đại đệ-tử trí-huệ nhất của Đức Phật, khi về gặp một người bạn cũ, người bạn hỏi ngài:
"Tu được cái gì?" thì ngài nói là:
"Được Niết-bàn!" rồi hỏi:
"Niết-bàn là cái gì?" Ngài nói:
"Niết-bàn là tâm không còn bị phiền-não, tham, sân, si, chớ không phải Niết-bàn là cái chỗ nó nào đó để chúng ta chạy về." Hỏi:
"Làm sao để được Niết-bàn?" Ngài nói là:
"Bát chánh-đạo, nhưng mà chỉ cần nhớ một chỗ là một câu thôi ..."

Câu gì vậy?

Nhắc lại: chúng ta khổ vì chúng ta mang thân và tâm này, mà "ngũ ấm xí thạnh" là nó gồm hết tám cái khổ này. Khi mà các tăng-sĩ thời Phật xuất-gia, như hồi sớm mai mình thấy, các vị thánh-ni mà động-lực thúc đẩy người ta đến chùa không phải vì thấy Phật đẹp, không phải vì thấy chùa thanh-tịnh, không phải vì nghe Phật thuyết-pháp hay, mà chỉ vì khổ quá nên người ta chạy đến chùa.

Như vậy nguyên-do chúng ta phát-tâm xuất-gia là bị cái khổ bức bách, mà cái khổ là do có thân tâm mà khổ, chớ không phải là vì không có thân tâm; như vậy thì chúng ta có thể còn giữ một chút xíu thôi là "khổ vì mang cái thân này", và cái khổ đó được gọi cái khổ ngũ uẩn.
Hồi nãy có nói, tôi nhắc lại:
Bạn ngài Xá-lợi-phất hỏi ngài:
"Đi tu theo Phật được cái gì?" Ngài đáp là:
"Niết-bàn!" Niết-bàn dịch ra là sự an-tịnh. Lại hỏi:
"Niết-bàn là gì?"
"Niết-bàn là tâm không còn bị chi-phối bởi phiền-não tham, sân, si." Hỏi:
"Làm sao được Niết-bàn?" Ngài nói:
"Tôi tu Bát chánh-đạo." Lại hỏi:
"Bát chánh-đạo là gì?"
"Tôi nói ra thì hơi dài, ông chỉ cần nhớ một chỗ thôi là chánh-kiến, tức là thấy đúng!"

Như vậy ở đây khuyên các vị tu một cái gọi là "chánh-kiến" tức là thấy đúng; thì ở đây bài kinh Bát-nhã gọi là "chiếu-kiến", tức là thấy đúng. Thấy cho rõ là chiếu-kiến.

Tôi có một người bạn khi đi dạy kinh như thế này, lần đầu tiên lên trước quý Phật-tử, thì phát run lên dữ lắm. Quý sư bà mới đứng phía sau lưng nói:
"Con đừng run, đừng run; nãy giờ con run quá!"
Quý vị đó mới nói thế này:
"Coi như không có ai hết" nhắc người giảng-sư như vậy đó.
Cô giảng-sư này tự trấn-tỉnh coi như không có ai vậy. Cô ta phát la lên:
"Coi như không có ai hết!"

Quý vị thấy lối này thất-bại! Tại sao thất-bại? Trước mặt mình có rất đông người mà coi như không có ai hết thì đâu có được! Thành ra cái thấy này đâu phải là cái thấy đúng, mà thấy sai chớ gì? Trước mặt như thế này mà tôi nói "coi như không có ai hết" tức là thấy sai rồi. Người ta có đông mà! Thành ra lối này thất-bại.

Kỳ sau nữa mới áp dụng một cách khác nữa. Quý sư bà mới bày cho vị đó thế này:
"Coi như là bà con thân-thuộc của mình!"

Và vị đó cứ lẩm bẩm "coi như bà con thân-thuộc của mình", và vị đó phát ra micro là "tôi coi quý vị như là bà con thân-thuộc của tôi."

Nói ra điều này cũng sai, vì giả sử như người đó là mẹ tôi thì khỏi cần nói tôi cũng coi bà như mẹ tôi. Thành ra ở đây, chúng ta nhìn ra sự thật ra sao thì y như vậy là đúng, còn mình phải nhìn khác đi cái nghĩ của mình ngay hiện-tại, cái thấy của mình ngay hiện-tại, thì cái đó là sai.

Chánh-kiến ở đây là thấy đúng: quý vị hiện-diện như thế này, tôi thấy quý vị hiện-diện thì gọi là thấy theo chánh-kiến. Còn giả sử như bây giờ tôi coi như quý vị không có, hoặc là như bà con của tôi, thế này thế khác v.v... thì những cái đó là cố gắng bóp méo sự thật đi. Theo nhà Phật, ở đây chánh-kiến là thấy đúng những sự thật hiện-diện; và cái thấy ở đây có nghĩa là thấy rõ cái làm chúng ta khổ là cái thân và tâm này cấu-tạo bởi cái gì?

Trước hết bài kinh được Đức Phật giới-thiệu nguyên-bản chữ nho:

"Quán tự tại Bồ tát hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách"

Tôi dịch ra là: "Có một vị Bồ-tát tên là Quán-tự-tại - tức là Đức Phật giới-thiệu cho mình tên vị Bồ-tát đó - ngài do dùng trí-tuệ soi thấy năm uẩn là không nên diệt được hết tất cả khổ."

Đó là lời giới-thiệu. Bây giờ, theo bài kinh này, muốn giải-quyết cái khổ, chúng ta phải thấy chúng ta khổ là do có cái thân này. Theo sự phân chia tư-tưởng Ấn-độ thời đó, thân này được cấu-tạo bằng năm yếu-tố sau đây, mà danh-từ chuyên-môn gọi là ngũ uẩn. Ngũ uẩn gồm có sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Phải thấy cho rõ năm yếu-tố đó như thế nào - mà thấy bằng trí-huệ - thì chúng ta sẽ vượt qua để hết khổ.

Bây giờ quý vị theo tôi để thấy lần lần.

1- Sắc: Chúng ta thường dịch là màu thôi. Sắc ở đây là xác thân, xác thân này cấu-tạo bằng cái gì? Trong kinh kể là tứ-đại, bốn thành phần: chất rắn, chất lỏng, chất hơi, và chất nóng, cấu-tạo nên cái thân này. Bây giờ quý vị thấy cái xác thân mình được cấu-tạo như thế đó, nhưng mà nó có thường hay không, hay là nó biến-chuyển? Nó có biến-chuyển từng giây chớ gì! Đứa bé tháng trước thấp, tháng này cao cả tấc; người già tháng trước ít già, bây giờ già nhiều, chớ không ai càng ngày càng trẻ hết. Con nít thì lớn lên. Thấy rõ mọi vật như nó hiện-diện; thấy như vậy gọi là chánh-kiến.

Có ai càng ngày càng trẻ đẹp đâu? Ai cũng càng ngày càng suy tàn đi, phải không? Chúng ta thấy rõ xác thân mình như nó hiện-diện thì gọi là chánh-kiến; chánh-kiến cái xác thân này. Ở đây mình cũng thấy như nó hiện-diện chớ không phải bóp méo đi, có nghĩa là chúng ta càng ngày càng trẻ đẹp mà chúng ta thấy càng già càng xấu là sao? Mà chúng ta nhìn nó như nó hiện-diện gọi là chánh-kiến (thấy đúng), phải không?

Để làm sáng tỏ cái sự thay đổi xác thân thì Phật đưa thí dụ thế này:

Có thằng bé cỡ chừng bảy tuổi, bỏ nhà đi chơi. Đi chơi rồi buồn ngủ quá mới ghé miếu thổ-thần ngủ. Trong khi ngủ như thế thì trời tối lúc nào nó không hay. Cho nên ngủ đến nửa đêm thức dậy, nhưng trời tối quá nó không dám về. Khi đó chợt nó thấy có một con quỷ đen. Con quỷ đen vác thây của một ông già sáu mươi, đi từ ngoài vô; vô trong, nó quăng cái thây xuống đó. Một lát sau con quỷ trắng cũng từ ngoài chạy vô. Hai con quỷ dành thây ông già để ăn thịt. Hai con giành tới giành lui, và con nào cũng nhất-định giành cả cái thây ông già.

Khi đó con quỷ đen này mới hỏi thằng nhỏ:
"Cái thây này ai đem vô trước?" Thằng nhỏ nói:
"Tôi thấy ông vác đem vô trước!"

Lúc đó ông quỷ trắng sùng quá cho nên ông quỷ trắng mới rứt cánh tay thằng nhỏ để ăn thịt; là vì con quỷ nó có phép mà! Con quỷ đen thấy thằng nhỏ bênh mình cho nên nó bị ăn thịt, nên ổng rứt cánh tay xác chết thế vô, tay của ông già cho nên nó dài hơn tay kia của đứa nhỏ. Con quỷ trắng rứt luôn tay này nữa, thì quỷ đen mới thế vô cánh tay một cánh tay nữa. Lần lượt nó được thay đến đầu mình tay chân. Đến khi gà vừa gáy sáng, hai con quỷ biến mất. Cái thây thằng nhỏ đã bị con quỷ trắng ăn thịt lần lần rồi. Nhưng mà xác thân ông già được đền lần lần vô cho nó, mà đều bằng sức quỷ, cho nên sáng hôm sau thằng nhỏ này cũng quên là nó cũng đã đổi thân đi, nó chạy về nhà.

Vừa gõ cửa, kêu: "Má ơi!" thì ba má nó ra chào nó, hỏi:
"Thưa cụ, cụ kiếm ai?"

Phật kể câu chuyện đó để chỉ rằng trong một đêm thôi, thằng bé bảy tuổi đã biến thành ông già sáu mươi. Sự thay đổi quá mau cho nên mình thấy là mình già quá mau. Nhưng ở đây mình thấy con quỷ đen tượng trưng cho đêm, con quỷ trắng tượng trưng cho ngày. Đêm và ngày tới lui riết rồi nó đổi mình thành già lúc nào mà mình không hay.

Quý vị cứ lâu lâu giở an-bum ra thì thấy ngày tháng nào mình nhỏ xíu thế này, bây giờ tại sao mình lớn thế này? Sự thay đổi này dường như mình không thấy, nhưng thiệt ra nó thay đổi từng ngày từng đêm, và đến bây giờ chúng ta già hồi nàochúng ta không hay, quý vị có thấy không?

Ở đây ít có gương soi, cho nên tôi cứ tưởng tôi giống như hồi tôi mới vô đây, tức là hồi tôi mới hai mươi mấy tuổi. Nhưng mà lâu lâu về nhà soi kiếng vóc dáng mình, tôi hết hồn. Nhìn vô kiếng, tôi thấy mình là một bà già, trong khi đó mình ngỡ mình hai mươi, hai mốt tuổi thôi. Thành ra sự thay đổi quá chậm cho nên chúng ta không thấy, nhưng thiệt ra nó thay đổi từng ngày. Vị nào có học vạn-vật học lớp mười hai hồi xưa, thì nói chỉ cần bảy ngày đủ để chúng ta đổi hết tất cả tế-bào thành một con người mới rồi. Như vậy thì nhìn cái xác thân này thay đổi theo từng giây phút, không lúc nào là bền bỉ hết, cái đó là chánh-kiến, phải không? Thấy nó thay đổi, sinh-diệt từng giây từng phút, đến bây giờ chúng ta chưa kịp nghĩ gì hết thì mình đã già rồi. Như vậy thì cái xác thân này thay đổi, không bền chắc, quý vị thấy rõ ràng, đó được gọi là chánh-kiến.

2- Qua điểm thứ hai là Thọ, chúng phải chánh-kiến bằng cách nào?

Thọ là cảm-giác. Chúng ta có những cảm-giác vui, buồn, hoặc không vui không buồn. Nhưng mà cảm-giác này không cố-định.

Quý vị để ý điểm này: cảm-thọ nó tùy theo duyên thôi. Chẳng hạn như quý vị ở nhà ao đất mà xếp bằng như vậy chắc là khổ dữ lắm; mà vô đây mình chen được một chỗ, thấy vui, là tại sao? Cũng chỗ ngồi đó mà mình ở nhà mình, mình không thèm giành; mình nằm cả phòng ở nhà mình, mình thấy còn chật. Vô đây ngồi chỉ có một chút mình thấy được hạnh-phúc.

Cái cảm-thọ này không tùy thuộc ngoại-cảnh mà tùy theo quan-niệm của mình. Thử hỏi quý vị, sầu riêng ngon hay dở? Có người cho sầu riêng là thúi, có người khen sầu riêng là thơm. Còn rượu là ngon hay dở? Hôm trước đi ra Hà-nội trong buổi chiêu-đãi, người ta có mời uống la-de, tôi tưởng là ngon lắm, té ra là nó đắng dữ lắm, nó không ngon gì hết! Cà-phê cũng đắng nữa, như vậy mà có những người bỏ tiền ra uống cà-phê, uống la-de chớ gì? Hút thuốc lá nữa! Tôi nghe nói có người mỗi ngày bỏ ra mấy trăm đồng để hút thuốc, mà tôi thấy khói thuốc có ngon gì đâu!

Cũng là một cái sắc đó, cũng là một cái cảnh đó mà có người thấy vui, có người thấy buồn. Có người mình chỉ nghe tiếng chửi thề thôi là mình thấy phát giận rồi, thấy khó chịu; vậy mà có người chửi thề cả ngày cả đêm rồi sao? Tức là có cái gì họ thấy khoái họ mới chửi chớ! Cũng có người nghe niệm Phật thì vui, có kẻ nghe niệm Phật thì buồn. Thành ra cái cảm-thọ này nó tùy-thuộc vào ngoại-cảnh.

Tôi nhớ lúc còn nhỏ đi học, cỡ mười bốn, mười lăm tuổi, học cùng lớp mấy đứa con trai lấy kẹo chewing gum nó chọi lên đầu tôi, lúc đó tóc dính cả chùm, phải lấy dao lam cắt quăng đi mấy đuôi tóc. Tôi nhớ tôi đã khóc, khóc ôi là khóc, khóc đến nỗi thầy giáo phải bắt mấy tụi con trai quỳ gối hết. Sau đó độ một năm, tôi cạo nguyên cái đầu; khi đó tụi bạn trai mới đến hỏi tui: "Sao bây giờ chị dám cạo nguyên cái đầu, mà trước đó tôi làm chị đứt có mấy cọng tóc mà chị làm cho tôi quỳ cột cờ như vậy?"

Như vậy cái cảm-thọ của chúng ta gồm có vui, buồn, không vui không buồn, những cái này nó tùy-thuộc vào ngoại-vi nữa phải không? Thành ra cái này nó cũng vô-thường, nó không cố-định. Những điều này hôm qua chúng ta thấy là vui, mà bữa nay thấy là buồn rồi. Thành ra cái này mình thấy nó vô-thường.

Tại sao có những người tự-tử? Tại vì họ tưởng cái vui hay buồn này nó cứ như vậy hoài cho nên chịu không nổi. Có những cái buồn mình chịu hoài không nổi cho nên mình trốn đi, bằng cách tự-tử, hoặc là đi uống rượu, hay là say sưa gì đó. Bây giờ thấy rõ cái vui hay là cái buồn này là ở ngoại-cảnh cho nên chúng ta biết mà tìm cách chuyển nó; chuyển được chớ gì? Như vậy con trai ở biển nó bị một viên đá vô trong bụng thì nó đau nhức. Những con yếu sẽ chết vì vết thương, những con mạnh sẽ tiết ra một chất bao bọc chung quanh vết thương đó.

Cũng vậy, nếu chúng ta là một người mê, không biết, gặp một cơn buồn thì chỉ nằm trùm mền mà khóc thôi, hoặc là say sưa trác táng để nó qua cơn buồn; nhưng mà nếu biết, chúng ta chuyển cái buồn đó.

Như vậy thì ngoại-cảnh có đến có đi, có tác-hại đến mình, nhưng mà vui buồn giận ghét hay không là cái quyền của mình chớ. Mình xử-dụng cái quyền đó được không? Cảm-thọ là những cảm-giác vui buồn hay là không vui không buồn, đều tùy-thuộc nơi mình.

Cũng một vấn-đề đó mà đối với mình khi vui khi buồn; thì bây giờ cái ngoại-cảnh mà vui buồn giận ghét hay không là quyền của mình, mình xử-dụng được hay không?
Vậy, tu ở đây là phục-hồi trở lại cái quyền tự-chủ của mình.

Hôm trước, tôi có kể cho quý vị nghe mấy bà nói liệu đó. Tôi thấy một bà bưng thúng bánh tiêu đi bán ở bến xe Văn-thánh. Mấy đứa nhỏ bán thuốc lá kêu "quăng đi bà, quăng đi" cái bà ta quăng xuống; chỗ sình, nó kêu: "Bà à bà, khiêu-vũ đi bà!" cái bà ta nhảy thôi là nhảy. Lát sau chúng nó bỏ đi, đồ đạc của bà ta hư dơ hết. Thế là bà ta đứng khóc, và chửi.

Như vậy chúng ta thấy, bà này hoàn toàn không tự-chủ. Bưng thúng đồ đi bán mà tụi con nít bảo quăng là bà quăng, chỗ sình lầy mà bảo leo vào đó nhảy, là mất tự-chủ.

Bây giờ chúng thì sao? Buổi sáng có người ta bảo "Bà hai, vui đi bà!" là chúng ta vui. Bảo cười mình cười, bảo khóc mình khóc; nhưng mà họ biểu không trực-tiếp như bà liệu đó, tức là họ tìm cách như kể chuyện nào đó, để chúng ta nghe thôi. Thí dụ như muốn bà này buồn, chỉ cần nói "Bà hai ơi, tôi nói bà điều này nghe, có người chửi lén bà!" Muốn bà vui, họ nói "Bà hai ơi, tôi nói điều này nghe, có người khen bà!" Thiệt ra có ai khen đâu, và thiệt ra có ai chửi đâu! Chỉ nghe miệng của người đó nói thôi mà chúng ta đã liệu rồi, phải không nào?

Như vậy cái cảm-giác này mình thấy rõ nó thay đổi. Tu là làm sao làm chủ cái cảm-thọ này, đừng để cho nó chi-phối mình, vui buồn hay không là tùy quyền của mình. Thành ra cái cảm-thọ này có hai phần, một phần thuộc về thân, một phần thuộc về tâm. Thân mình có nghĩa là ai mà gặp lửa thì cũng thấy nóng, cầm nước đá thấy lạnh, dù là bậc thánh đi nữa cũng có cảm-giác đó. Còn cảm-thọ vui buồn của con người là do tâm, nên chúng ta thấy chúng ta có thể tự-chủ được.

Hôm trước tôi đọc bài kinh cho quý vị nghe đó, kể có một ông già đi đến gặp Phật và than với Phật là ổng khổ quá, tại vì đau bệnh rề rề. Phật mới dạy cho ông bài kinh, ông ta học thuộc lòng và đi ra mừng vui quá, và ông ta đọc tới đọc lui hoài. Ngài Xá-lợi-phất gặp mới hỏi:

"Này ông cụ, khi nẫy đi vô gặp Phật thì thấy buồn, mà bây giờ đi ra thì hớn hở. Có gì mà vui dữ vậy?" Ông ta mới khoe:

"Đức Phật đang giảng kinh cho gần năm trăm người mà gặp tôi vô Phật đặc-cách ngưng thời kinh lại, dạy cho tôi một thời kinh riêng." Hỏi:

"Bài kinh như thế nào?"

"Phật nói như thế này 'Một người Phật-tử chỉ có khổ thân mà không có khổ tâm, chỉ có bệnh về thân mà không bệnh về tâm' thành ra tôi vui quá, và Phật biểu tôi học thuộc lòng bài đó, cho nên tôi đi về!"

Khi đó ngài Xá-lợi-phất hỏi rằng:
"Ông có biết khổ thân ra sao, và bệnh về thân ra sao hay không?" Ông ta nói:
"Biết chớ! Bệnh về thân là nhức đầu, đau bụng, đau răng nè, nóng lạnh v.v..." Quý vị cũng biết vậy, phải không?
"Nhưng mà bệnh về tâm thì ra sao?" Ông ta mới nói:
"Nẫy giờ mừng quá, quên hỏi đi!"
Nhân đó ngài Xá-lợi-phất mới dạy cái khổ về tâm, cái bệnh về tâm, tức là bị cái tham (tức là sự khao khát), sân (là sự bực bội) chi-phối.

Như vậy, chỗ này chúng ta thấy Phật dạy, một người Phật tử dù cái thân mà khổ thì chúng ta vẫn có. Nhưng mà khổ tâm hay không thì chúng ta có thể có trọn quyền không khổ. Như vậy, thì chúng ta thấy "chiếu-kiến ngũ uẩn" đầu tiên phải là sắc thì thấy nó vô thường, thay đổi. Về cảm-giác thì chúng ta thấy tùy duyên.

Cảm-giác mà của thân khổ thì cái đó ai cũng có hết. Đức Phật cũng trải qua những cơn bệnh như mình chớ gì. Bất cứ thánh phàm gì cũng có bệnh khi có thân. Cái khổ về thân này có rồi. Nhưng mà cái khổ về tâm này thì nên để ý. Chúng ta có quyền tự-chủ. Thường thường cái khổ về tâm này là do sự tưởng-tượng nhiều hơn. Cho nên cái thọ nó không xuất-hiện một mình mà nó phải đi kèm với cái tưởng này.

3- Tưởng là sự tưởng-tượng, suy tưởng; cái Tưởng này thường thường chúng ta hay thoát ra cái cảnh hiện-tại, tưởng-tượng về quá-khứ hay tương-lai. Ở đây tôi đã đưa thí dụ, người bạn tôi kể chuyện là khi về miền tây chung với cô bạn gái. Hai người cùng đi, đi ngang ruộng. Cô bạn gái bị đỉa đeo, cô ta giở ống quần lên hỏi người bạn "Con gì đeo chân của em mà đen đen, nhớt nhớt, mà gỡ không ra?" Người bạn nói "Con đỉa đó!" tức thì cô ta nhào xuống xỉu liền, thành ra người bạn trai phải vác cô ta đi cấp cứu. Ông ta về than thở thế này: "Đàn bà con gái tôi không hiểu sao, con đỉa đeo cả tiếng đồng hồ không sao, tôi chỉ nói tên của nó thì bà ta xỉu. Tôi mà biết bà ta xỉu như vậy tôi đợi về nhà tôi mới nói, tại vì bà ta mập quá, khiến tôi vác gần chết luôn!"

Như vậy, quý vị thấy, cái con đỉa bà này không biết, nhưng nghe người ta nói con đỉa kinh khủng thì cô ta sợ con đỉa vô cùng; khi mà con đỉa đeo thật-sự thì không có gì tổn-hại hết, nó chảy máu thiệt đó nhưng mà nó không đến đổi làm cô ta xỉu; lúc nghe người bạn nhắc rằng đây là con đỉa thì cô ta xỉu. Như vậy cô ta xỉu là do đỉa đeo hay là do sự tưởng của cô ta? Do cô ta nhớ ra chớ gì. Cảm-thọ con đỉa đeo vô thân cô ta không thấy, không xỉu, cô ta còn hỏi con gì đẹp quá, dễ thương, nhưng mà khi nghe tên nó cô ta xỉu; cái xỉu này là do một phần cô ta cộng-tác chớ!

Thành ra cái tưởng này nó hại dữ lắm, mà trong khi cái tưởng thì vô-thường. Giả sử như cô ta không tưởng-tượng về nó, cô ta đâu có khổ! Cũng như quý vị thấy, khi mình bị đứt tay, ngay lúc đứt tay mình thấy đau một chút xíu, mình băng rồi thì thôi; nhưng mà giả sử mình ngồi tưởng-tượng lúc con dao nó cứa ngón tay của mình thì lúc đó kinh khủng thiệt. Người bị đứt võng hay té xe, người đó thấy là kinh khủng, hoặc là bị sét đánh trúng, thì tưởng tượng chắc là sợ lắm. Hôm trước tôi bị té võng, tôi thấy không đáng sợ lắm, là vì chưa kịp hay gì hết trơn là tôi thấy nằm trên đất rồi. Nó xảy ra rất mau. Lát sau nhớ lại tôi thấy ghê thật. Cái võng treo cao mà đứt dây té bịch xuống ghê thật.

Tai-nạn xảy ra cho mình thật ra không làm cho mình sợ lắm. Nhưng mà cái hồi tưởng của mình làm cho mình sợ; thì đó là cái tưởng về quá khứ chớ gì?

Bây giờ thêm cái tưởng về tương-lai. Thí dụ ở trong chung-cư đó, ông già ở tầng dưới, chú thanh-niên ở tầng trên, khi mà chú thanh-niên đi làm về chú lột đôi giày chú quăng rầm rầm xuống sàn nhà, làm ông già ông ta nghe bực quá đi. Cho nên sáng hôm sau, ông lên nói với chú thanh-niên thế này:

"Bữa nào chú đi về, chú nhớ để hai chiếc giày cho nó đàng hoàng, chớ tôi nói cho chú biết tôi bị đau tim! Chú vụt kiểu đó có bữa chú đền nhân-mạng đó!"

Cậu thanh-niên này hứa bữa sau sẽ đi êm ái hơn. Qua hôm sau đi về, cậu ta cởi chiếc giày ra, vừa vụt cái rầm thì chợt nhớ ra rằng mình đã hứa với ông già rồi, thành ra chiếc thứ hai cậu thanh-niên này mới để thiệt nhẹ xuống. Khoảng tiếng đồng hồ sau, thấy ông già ôm ngực lên thở hổn hển nói:

"Cậu ơi, cậu vụt giùm chiếc thứ hai, chớ nẫy giờ tôi đợi mệt quá!"

Như vậy thì quý vị thấy chuyện chiếc giày rớt xuống nó làm cho mình giật mình có một chút à, mà mình ngồi mình đợi đó thì khổ sở vô cùng.

Quý vị nào đi coi bói nói "cuối năm nay chết đó"; ngồi từ đây mà đợi cho tới tháng mười hai, thời-gian đó khổ dữ lắm. Chừng nào chết thì chết đại, chớ chờ đợi khổ sở khôn cùng. Vậy mà có người chẳng hạn họ nói: "Năm nay là năm hạn của bà, từ tháng giêng đến tháng chạp, thứ nhứt là coi chừng xe đụng, thứ hai là người ta chửi, thứ ba là bị giựt hụi, thứ tư là mắc nợ, coi chừng chết v.v ..." Thì người này một năm dài mười hai tháng đứng ôm tim kiểu ông già đó. Thà chừng nào nó vụt cái rầm mình giựt mình một cái thôi, chớ đàng này ngồi đợi chiếc giày nó rớt xuống, biết chừng nào nó rớt!

Cái tưởng tượng này là do chúng ta suy gẫm về quá khứ, về tương lai, và nó cộng với cái cảm-giác cho nên luôn luôn nó làm cho chúng ta khổ. Như vậy quý vị có biết tại sao thầy hay rầy mình là đừng hay vọng-tưởng không? Trong khi cái thật không đáng sợ, cái tưởng nó khủng khiếp vô cùng.

Chuyện con đỉa đã kể, quý vị thấy vô lý chớ gì! Nhưng mà thường thường chúng ta hay như vậy. Con đỉa đeo cả tiếng đồng hồ rồi, khi nghe người ta nói con đỉa đó thì xỉu.

Giả sử như bây giờ, ngày nay quý vị không có ở Bình-dương; lúc năm giờ chiều, quý vị vừa vô tới nhà thì có người bà hàng xóm tới nói:

"Chỗ chị em, tôi nói cho chị nghe, mà chị đừng có giận nghen! Tôi nói chị nghe, để chị biết người mà chị sống, là hồi mai, có bà tới đây nói xấu chị biết là bao nhiêu..."

Bà ta nói hồi bảy giờ, mình nghe xong mình buồn suốt cả tháng trời. Quý vị thấy, bà ta nói xấu mình lúc bảy giờ, mà nếu thực sự cái nói xấu đó nó làm khổ mình thì ngay lúc bảy giờ ở dưới này mình xỉu rồi. Mà không có! Tới năm giờ chiều, bà ta đi đâu mất rồi, đi về mình nghe lại mình xỉu! Cái này cũng y như chuyện con đỉa vậy. Nghe con đỉa mình thấy vô lý, còn chuyện này có lý hàng ngày chớ gì? Rồi mỗi ngày cứ nhắc tới nhắc lui, nhắc qua nhắc lại, và mình luôn luôn hành-hạ cái cảm thọ của mình, làm cho mình khổ. Ngoài cái khổ thân mình còn cái khổ tâm.

Như vậy cái khổ tâm này do mình hay là do ngoại cảnh? Quý vị thấy không? Ở đây chính cái tưởng này là do chúng ta chủ động chớ gì? Cái thân này là do mình điều khiển, cái tâm này do chúng ta chủ-động, vậy mà chúng ta chuyên môn như mấy bà liệu để bên ngoài giựt dây không hà! Người ta giựt giây mình, mình giựt giây người ta, rốt cuộc chúng ta liệu hết trơn! Thành ra Đức Phật tặng mình hai chữ "điên đảo".

Nãy giờ tôi phân tách cho quý vị thấy cái khổ tâm của mình, khổ thân của mình thì có. Còn sanh, già, bệnh, chết thì ai cũng bị chi-phối hết. Nhưng mà cái khổ tâm này có thể thoát được mà; thì thôi trong cảnh khổ thoát được cái nào đỡ cái đó. Sắc vô-thường, cảm thọ cũng vô-thường. Tưởng này cũng tùy duyên chớ đâu phải lúc nào cũng chi-phối mình. Như vậy mà để cho nó chi-phối, để rồi chúng ta đau khổ vì nó. Ít có ai mà ta thấy khổ do bệnh-hoạn, mà bệnh có khổ không nào? Bệnh dĩ nhiên là khổ chớ gì? Giả sử đau bụng thì đau bụng thôi. Tôi nhớ có lần tôi đau bụng, tôi khổ vô cùng, tôi muốn bỏ chùa đi, tôi đổi cái thân khác chẳng hạn. Sau đó tôi mới sực nhớ trở lại, là mình đau bụng, sở dĩ khổ là trong lúc ngồi đau bụng nhớ ngày hôm qua đau rồi, nay đau nữa, mai đau nữa; rồi ngồi tính tới tính lui thành ra khổ. Nhưng mà lúc đó, khi mình đau, mình chỉ đau thôi chớ đừng nghĩ, đừng tưởng nữa; đừng tưởng-tượng vẽ vời thêm nữa thì mình chỉ chịu đựng cơn đau của thân mà tâm không đau. Quý vị thấy không, cái tưởng này nó đóng góp, nó làm hại mình dữ lắm!

4- Bây giờ qua cái Hành. Cái Hành này thường thường mình gọi là đi, nhưng mà ở đây là sự diễn-tiến liên-tục của tâm-thức, nó mau đến nỗi mình tưởng nó là liên-tục. Quý vị đốt một cây nhang, nó chỉ đốt một đầu cháy đỏ chút xíu thôi; mình quay một vòng thì thấy có một vòng tròn, mình tưởng như có một vòng lửa. Nhưng tình thật qua những đốm lửa quay liên-tục, nó nối liền nhau thành một cái vòng. Hoặc thí dụ một thác nước đang chảy, hoặc vòi nước phông-tên, mình thấy nó chảy một dòng thế này, lúc nào cũng có một lằn thẳng. Thực ra chỉ có những giọt nước nối với nhau, mau đến đổi mình thấy có một đường liên-tục. Ở đây cũng vậy, cái chúng ta gọi là cái tâm của mình nó gồm có một cái lằn như thế này, được nối bởi những tâm-niệm, mà bây giờ mình nghĩ. Ví dụ, quý vị nghe tôi nhắc đến vụ đỉa, thì ngay khi nghe nhắc tới đỉa tức thì quý vị bắt đầu nhớ "À, mình làm ruộng ở Bình-dương cũng có đỉa". Ngay lúc đó thì quý vị bắt đầu đi về ruộng "Không biết trời ở trên đó có mưa hay không, ruộng có nước hay không, mưa hay là nắng; mình về tát nước hay rải phân. À, rồi tiếp theo mình sẽ mua phân ở đâu nè? Người bán phân cho mình họ bán phân giả hay thiệt nè? Người này là đàn bàhay đàn ông, dễ thương hay dễ ghét nè?" Như vậy quý vị thấy gồm toàn những cái niệm, là những đầu Ngô mình Sở nối với nhau liên-tục như thế đó, mà mình tưởng là cái giòng suy-tư mạch lạc, nhưng thực ra chặt nó ra từng khúc thì thấy là đầu Ngô mình Sở. Thành ra khi mình nằm ngủ, quý vị thấy, nằm mơ đang đứng ở đây, lát vọt ra chỗ kia, nó hoàn toàn không mạch lạc gì hết vì đó là biểu-hiện những diễn-biến của tâm-thức nó biểu-hiện qua giấc mộng; như khi thấy thân heo mà đầu ngựa chẳng hạn, quý vị chớ thắc mắc gì vì mình luôn luôn đem hình ảnh nầy nối qua hình ảnh kia, và chính những cái này diễn-tiến mau quá cho đến đổi mình thấy cái tâm mình là một cái gì đồng-nhất, bất-biến.

Khi nào quý vị bỏ ra thời-gian chừng năm phút, nhìn trở lại thấy hoàn toàn nó không có gì là mạch lạc hết. Nhưng mà cái không mạch lạc đó chúng ta lại tưởng là cái tâm của mình. Thật ra nó chỉ là sự diễn-biến tiếp nối từng hình ảnh với nhau thôi. Như vậy cái Hành này chỉ là sự diễn-biến của tâm-thức, nó đi mau đến đổi chúng ta tưởng là nó đồng-nhất, nó bất-biến, nhưng thật ra nó biến đổi trong từng niệm. Niệm là khoảng tâm thức ngắn chừng một giây đồng hồ thôi.

Như vậy thì thấy rõ như thế đó gọi là "chiếu kiến", là "chánh-kiến", là thấy đúng cái xác thân này thay đổi, thấy cảm-thọ thay đổi, thấy tưởng-tượng thay đổi, thấy hành thay đổi, tức là sự diễn-biến tâm-thức đổi quá mau.

5- Bây giờ là yếu-tố thứ tư, là Thức đó.

Thức ở đây là nhận biết các giác-quan đối với cảnh hiện-tại. Thí dụ tôi đứng đây, tôi nhìn thấy, Thức ở đây là cái biết của con mắt, cái biết của tai, cái biết của mũi, cái biết của lưỡi, cái biết của thân; tạm chia ra như vậy. Cũng như quý vị tạm chia ra một tuần làm bảy ngày. Chúng ta đặt ra là thứ hai, thứ ba, thứ tư v.v... nhưng thật ra các ngày đó đâu có gạch nối với nhau, đâu có cái dứt khoát giữa ngày này qua ngày kia. Cũng như mình chia ra một ngày mười hai giờ gì đó, thì những giờ đó tạm chia ra nó là một giòng liên-tục.

Ở đây mình thấy người Ấn-độ chia ra thân này làm năm thành phần. Thành phần xác thân gọi là sắc, phần tâm gọi là thọ, tưởng, hành, nhưng thật ra thọ, tưởng, hành, thức này nó liên-kết với nhau chớ không bao giờ nó hiện-diện từng cái một. Tưởng-tượng xong là thấy khổ. Thấy khổ xong tính một hơi thì đó là hành. Do tính một hơi mà ta nhận biết những sự kiện hiện-diện, nhận biết trước mắt mình thành sai lầm hết gọi là Thức.

Chỗ này, một vị thiền-sư có người đến hỏi ông ta:
"Nghe nói ngài đã ngộ rồi, xin ngài chỉ cho con là ngài ngộ kiểu nào?"
Ngài mới chỉ một chấm trắng trong bức tường này và hỏi:
"Ông thấy chấm này hay không?" Người đó nói:
"Thấy!" Ông ta nói:
"Ông thấy! Tôi thấy! Tại sao nói ông mê, tôi ngộ?"

Một vị khác đến nhà, ông ta chỉ gõ vào bảng kêu cọc cọc thế này, hỏi:
"Nghe không?" Được trả lời:
"Nghe!"
"Ông nghe, tôi cũng nghe; nhưng sao ông ngộ tôi mê?"

Như vậy, thấy nghe hiểu biết chúng ta đều giống hệt các người đã đại ngộ! Có điều là do sự diễn-biến của thọ, tưởng, hành và cái sai lầm nào không biết chúng ta thành mê.

Ở đây khi mà nhận rõ sắc là xác thân, thọ là cảm-giác, tưởng là tưởng-tượng quá-khứ hoặc là tương-lai, hành là sự diễn-biến liên-tục của tâm-thức, thức là những sự nhận biết trong hiện-tại, đều thấy rất là vô-thường, không có cái nào là bền, thì cái đó được gọi là "chiếu-kiến ngũ uẩn giai không", thấy rõ năm uẩn là không.

Như vậy, bây giờ ở đây mình phải hiểu "Không" không có nghĩa là không có hoàn toàn, mà có nghĩa là nó bất-định, tùy theo cái duyên bên ngoài mà thay đổi.

Chẳng hạn quý vị thấy tôi ngồi ở đây mập, thì cái mập này không cố-định. Lần sau quý vị xuống, có thể là tôi trải qua một trận bệnh hoặc là tôi ăn không được thì tôi sẽ ốm, hoặc là tôi ăn nhiều tôi sẽ mập hơn. Như vậy cái mập của xác thân này cũng không cố-định. Thí dụ kỳ này quý vị thấy tôi đen nhưng thời-gian sau quý vị thấy tôi lăn bột trắng hơn chẳng hạn; thì như vậy rõ ràng cái đen cái mập, cái ốm, cái trắng v.v... tất cả cái gì thuộc về thân và tâm này cũng tùy duyên chớ không có cái gì cố-định. Thấy rõ cái đó gọi là hiểu lý "Không". Như vậy cái "Không" này dễ hiểu chớ? Điều này mình có thể thấy rõ ràng chớ! Nhưng mà chỉ kẹt một chút cho nên mình đương ngộ trở thành mê đó.

Cái kẹt này là ở chỗ nào? Nói xác thân, Phật cũng có xác thân, thầy mình có xác thân, mình cũng có xác thân. Thầy thấy nghe hiểu biết ra sao, mình cũng thấy nghe hiểu biết như vậy, mà mình có thể còn giỏi hơn thầy nữa! Thầy đâu biết tiếng Anh, tiếng Pháp. Mình biết tiếng Anh, tiếng Pháp. Ông thầy đâu có biết lái xe Honda. Mình còn biết đi xe Honda nữa. Những thú vui như coi hát, coi tivi, nghe cassette, thầy đâu có những thú vui đó; mà sao mình phiền-não, ông thầy không có phiền-não? Như vậy cái bí-quyết nó khác nhau ở chỗ nào? Tìm ra cái bí-quyết đó là giải-đáp được câu hỏi, tức là chuyển mê khai ngộ.

Chỗ này sự trình-bày cái "Không" mình tưởng đâu là xa xôi, thực ra nhìn nó nó đúng như nó hiện-diện. Xác thân và tâm chúng ta thay đổi vô thường tùy duyên. Cái đó được gọi là hiểu được lý không. Thành ra người mê nhận biết cái thức này nó rất quan trong. Người mê sẽ thấy cái gì?

Chẳng hạn, ví dụ một người đang nằm mơ, ông ta nghe tiếng con ong bay vù vù. Con ong bay bên ngoài nhưng ông ta thấy có chiếc máy bay bay qua. Lát sau, ông ta ngủ ông ta làm sao cái ly ở bên cạnh bị bể. Ông ta nằm mơ thấy máy bay làm rớt xuống trái bom nổ. Bây giờ, chân ông ta bị muỗi cắn, ông ta nằm mơ thấy liền bom nổ, mảnh bom văng miểng làm ông ta gãy chân. Quý vị thấy bên ngoài là ong bay, ly bể, muỗi cắn. Mà bên trong máy bay, dội bom, mảnh bom trúng ông ta gãy chây, ông ta đi bệnh-viện, ông ta khổ vô cùng. Cảnh ở ngoài không ăn thua gì hết mà cảnh bên trong rất khổ, khi ông ta thức dậy, máy bay biến thành con ong, trái bom nổ biến thành cái ly bể, và chân gãy chỉ là một vết muỗi cắn. Có phải ông ta hết khổ là vì ông ta thấy sự thật không?

Trở lại mình, quý vị có nghe nói "đa-nghi như Tào-tháo" không? Tại sao người ta nói câu đó?

Bởi vì ông Tào-tháo đi đánh trận thua; ông đi ngang qua một trang trại. Khi đi qua trang trại đó, người chủ trại mới sai con đi mua rượu, ông chủ trại đích thân đi mài dao làm heo đãi Tào-tháo. Ông Tào-tháo nghe tiếng nhạc ngựa đi mua rượu thì ông ta suy nghĩ ra liền, rằng người này đi báo quan để bắt mình. Ông ta nghe tiếng mài dao, nghĩ rằng người ta mài dao để giết mình. Nghe tiếng người ta thức dậy nhôn nhao và nghe người đầy tớ hỏi "Giết một hay là giết hết?" ông chủ nhà bảo "Giết hết mới đủ". Thế là Tào-tháo nghĩ "Rồi, họ sắp ra tay!" thành ra Tào-tháo kêu quan quân thức dậy, giết hết cả nhà của người chủ trang trại đó. Và rượt theo giết thằng con nữa. Lát sau mới khám phá ra người ta mua rượu giết heo là để đãi Tào-tháo mà ông lại giết hết cả nhà người ta.

Thành ra giết xong và biết được tự sự Tào-tháo mới than một câu thế này: "Chẳng thà ta phụ các ông còn hơn để các ông phụ ta."

Như vậy giấc mơ này mình thấy rõ là nhắm mắt, và giấc mơ Tào-tháo là mở mắt. Nghĩa là ông ta ngồi rõ ràng nhưng mà cái tâm rất đa-nghi. Tào-tháo là gian-hùng hay hại người khác lắm. Thành ra nghe và suy gẫm các hành-động chung quanh và ông ta cho là hại ông ta, nên ông ta làm lầm như thế đó. Cũng như giấc mơ chớ gì? Và do đó là do cái mê của Tào-tháo mà giết lầm những người nầy.

Mới đây tôi nghe một cô Phật-tử đến lễ Phật và kể tôi nghe một câu chuyện.

Cô ta ở chung với một người bạn, hai người cùng là Phật-tử và cả hai cùng tu. Cô ta thấy mình rảnh thời-gian, cô ta mới học nghi-thức. Học nghi-thức nhưng cô ta già quá không nhớ, cho nên cô ta mới ghi lên tấm bảng ở đầu giường, ở chỗ cái tủ. Cô ta ghi chữ cuống có nghĩa là dối gạt. "Cuống: dối gạt, đạo-đức giả. Sang: bỏn xẻn v.v..." để cho cô ta nhớ danh-từ nghi-thức. Cô ta ghi để học vậy thôi. Người bạn cô ta mới diễn dịch ra là cô ấy ghi để chửi xéo, thành ra chửi cô ta quá chừng!

Như vậy quý vị thấy, do cái suy gẫm của mình mà mình trúng pháp biến thành trật hết. Thành ra tình bạn của hai người sứt mẻ là vì người bạn cô ta quá đa-nghi! Người bạn cô ấy nghĩ là cô ta muốn chửi xéo bằng cách ghi cái chữ đạo-đức giả là muốn chửi người bạn ở chung. Mà thật ra là cô ta ghi để cô ta học cái danh-từ nghi-thức mà thôi.

Như vậy, cái Thức này là cái biết đó, mình gọi là có chánh-kiến, là mình nhận đúng; nhưng thật ra luôn luôn nhận qua cái suy gẫm của mình thôi.

Giả sử mình đi qua bụi mãng-cầu nào đó, thấy hai người bạn đang nói chuyện với nhau; mình đi chờ tới, mình thấy họ làm thinh; họ làm thinh nên mình không biết họ làm cái gì, và luôn luôn mình suy gẫm thế này: "Chắc họ đang nói lén mình thành ra mình đi qua họ làm thinh!" thành ra họ bị ghi một điểm. Hôm sau nữa, mình qua sàng nước rửa chén, họ đang nói xôn xao, họ thấy mình tới cái là họ làm thinh; thế là mình nói: "Hai lần họ nói lén mình!" và lần thứ ba, lần thứ tư, và rồi mình đến mình gây lộn với người ta. Mà thật ra không có gì hết! Hai người đang tính chuyện đi chơi, thấy mình tới họ sợ mình mét thành ra họ nín; và mình suy gẫm ra họ nói lén mình. Như vậy, cái Thức này là cái nhận biết những cảnh sai lầm là do sự tưởng-tượng của mình.
Do đó chúng ta cũng có cái thân và tâm mình cũng như bao nhiêu người khác, nhưng mà những cái thân và tâm đó ta sử dụng cái tâm của ta ra sao không biết mà chỉ làm khổ mình và khổ người. Mà riêng mấy bà là rất sở-trường về cái tưởng tượng này. Tôi thấy một trăm gia-đình sở dĩ tan vỡ, không hạnh-phúc, là tại vì người vợ hay người chồng tưởng-tượng nhiều quá thành ra phát ghen, mà chính cái ghen này đó nó làm đổ vỡ chớ gì?

Thành ra quý vị đến chùa quý vị thấy vui vẻ, và nói ở nhà mình buồn, cái buồn đó là do mình đóng góp một phần. Mà người đóng góp đó họ không thấy rõ, chính họ phá vỡ hạnh-phúc gia-đình của chính họ.

Chẳng hạn có một chuyện giản-dị.

Người chồng đến than với tôi như thế này. Ông ta đi ra đường thấy có người bằng tác của vợ mình, mặc bộ đồ đẹp, may kiểu đẹp. Về nhà, ông ấy mới nói với vợ:

"À, anh ra đường thấy có người đó mặc bộ đồ màu đó, đẹp lắm. Thành ra anh thấy em nên may kiểu đó!"

Bà vợ nghe khoái lắm, đi chợ mua vải may liền. Bữa sau, bà ta mới suy diễn ra:

"Anh ra anh thấy ai, thấy hồi nào? Nhìn ở đâu, ở đâu mà biết người ta đẹp, bận kiểu nầy? Anh phải ngồi gần mới nhìn biết được. Con nhỏ đó ở đâu, anh nói cho tôi nghe!"

Ông chồng từ đó về sau hết dám nói.

Ông ta chỉ cần nói đi đến nhà ai, thấy pha cà-phê ngon về nhà bày cho vợ; hoặc là thấy ai ăn ngon cái gì, về nhà bày cho bà vợ là bị vợ chụp hỏi "Rồi ăn sao? Vô nhà chỗ nào uống cà phê? Tại sao hồi nào giờ không sanh tật chê khen, mà bây giờ khen chê là có cái gì rồi!" và đay nghiến nhức nhối cả đêm dài.

Ông chồng đi làm cực khổ, về nhà muốn nghỉ, mà về nhà là bị bà vợ cằn nhằn. Nói mà không nghe thì bị vợ bảo:

"Thôi thôi tới rồi! Rõ ràng là có bằng chứng rồi!"

Và bà ta đi rình nữa! Rình theo kiểu Tào-tháo thì rõ ràng cách đi, cách đứng này có dự-tâm. Gia-đình bà ta bắt đầu xáo trộn là do bà vợ đóng góp. Ông chồng đi làm về cứ đề-phòng, muốn nói, muốn làm bất cứ cái gì cũng đều phải uốn lưỡi hai ba lần, không biết nói ra có bị cái gì hay không. Một bên vô-tình, một bên hữu-ý. Lâu dần ông ta mệt quá phải bỏ cuộc nửa chừng.

Những cái khổ này, như vậy là do mình tạo ra chớ đâu có phải là bên ngoài. Chỗ này tôi chỉ giới-thiệu bài kinh đầu tiên thôi. Có một vị Bồ-tát, vị này không biết là nam hay nữ, tăng hay tục, chỉ biết tên là Quán-tự-tại. Ngài dùng trí-tuệ soi thấy năm uẩn là không thì Ngài vượt qua tất cả khổ.

Bây giờ Đức Phật mới giới-thiệu dần, nói mình cũng phải tu như Ngài thì chúng ta cũng sẽ vượt qua khổ.

Nãy giờ tôi giới-thiệu năm uẩn cho quý vị thì thấy rằng mình đã khổ nhiều rồi. Khổ thân không ai thoát được. Hễ có thân là có bệnh có khổ. Nhưng mà cái khổ tâm thì chúng ta có thể sửa được. Do đó, trong kinh-điển đại-thừa mới đề-nghị mình biến phiền-não thành bồ-đề, biến ta-bà thành tịnh-độ. Còn nếu mà không khéo thì cái cảnh ta-bà coi như tịnh-độ mình sẽ biến thành ta-bà, cái cảnh thanh-tịnh mình sẽ biến thành phiền-não. Như bà vợ mà tôi đã giới-thiệu, bà ấy quậy riết hoài ông chồng mệt mỏi quá, ở sở làm đã mệt, về nhà còn bị đay nghiến thì tự-nhiên ông ta phải ghé chỗ nào đó êm ấm hơn chớ gì? Quý vị thấy điều này? Hiểu rõ điều này, chúng ta áp-dụng làm sao ở trong cảnh khổ thì chúng ta nên giúp cho nhau sống an-lạc một chút chớ đừng tưởng-tượng quá mà làm khổ mình và khổ người.

Quý vị thấy năm uẩn là không đó, đâu phải gì là cao xa, mình nhìn thấy nó rõ là nó thường biến-đổi, không bao giờ có một giá-trị cố-định cứng chắc hết. Thân này thay đổi và tâm thay đổi, cảm-giác thay đổi, nhận biết cũng thay đổi. Cùng là sự kiện đó mà khi vui mình thấy khác, khi buồn mình thấy khác. Cũng như cái bông này là đẹp khi quý vị vui, thấy nó đẹp, và khi nổi quạo thì thấy nó xấu. Như vậy thì luôn luôn là tùy duyên thôi. Do đó mà hiểu rõ cái ý tùy duyên này, do nhân-duyên mà nó tạo thành cảnh vui, cảnh buồn, cảnh thương, cảnh ghét, cảnh giận, cảnh hờn, thế này thế khác v.v... Hiểu được cái đó gọi là hiểu lý không.

Như vậy lý không là không khó phải không?

Và Phật dạy tiếp:
Phật mới gọi ngài Xá-lợi-tử, tức là ngài Xá-lợi-phất đó, Thị chư pháp không tướng. Kế đó,

"Xá-lợi-tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ, tưởng, hành, thức, diệc phục như thị."

Tức là Ngài nói như vậy thì cái sắc này nó cũng biến đổi tùy duyên. Cái thọ, tưởng, hành, thức nó cũng đều không hết, có nghĩa là nó không cố-định. Cái tưởng tượng, cái cảm-giác của thân và tâm hoàn toàn nó không có cố định. Cái nhận biết cũng không có giá-trị thật sự nữa. Hiểu được như thế đó tức là hiểu được cái lý không, và bây giờ, Phật nói tiếp:

"Này Xá-lợi-tử, cái không tướng không của các pháp đó nó không sanh, không diệt, không dơ, không sạch, không tăng, không giảm."

Mà bây giờ mình mới thấy nè, những cái mình luôn luôn nói là cái sinh, cái diệt, cái dơ, cái sạch, cái tăng, cái giảm là khi chúng ta nói đến một cái giá-trị coi như không biến đổi; nhưng mà ở đây đưa ra nếu mà người hiểu được cái lý không rồi thì thấy không có cái gì trên thế-gian này mà có cái giá-trị bất-định hết, cố-định hết, mà nó luôn luôn thay đổi.

Chẳng hạn mình nói cái ngon nhứt trên thế-gian này là sầu riêng thì - điều này xin lỗi - có người họ chịu không nổi cái mùi của nó đâu! Có những cô trong chùa mà chúng tôi đem trái sầu riêng vô cúng, cô ta bảo cô ta không có tụng kinh, vì cô ta nghe mùi cô ta nhức đầu, chịu không nổi. Chẳng hạn thứ ở ngoài thế-gian người ta thích nhứt là cà phê, thuốc lá, rượu, thì ba thứ này, tôi chịu không nổi rồi! Như vậy thì quý vị thấy những cái mình cho nó có một cái giá-trị cố-định, thực ra nó không cố-định mà nó tùy duyên, bởi vì người này thích nên cho là đúng, và người kia không thích cho nên họ thấy là sai. Thành ra mình phải thấy những sự thiện ác, phải quấy, tốt xấu ... Những cái đó nó không có cố-định. Thấy để đừng có chấp.

Tôi nhớ lúc mà tôi ở Linh-chiếu này lúc nào tôi cũng nhìn thấy tôi có một tiêu chuẩn cố-định hết. Chẳng hạn như cái thùng xách nước mà xách xong theo ý tôi tốt nhất là phải úp trở lại cho nó đỡ hư. Tại vì để như vậy nó nong nước nó sẽ sét và mau mục. Khi nào thấy mấy cô xách xong nước để ngửa ra thì tôi bực dữ lắm, tôi nói là phí phạm. Tôi đi ra ngoài tôi thấy dùng chén đá hay dao nĩa quăng bừa bãi không đem vô, tôi cũng bực trong bụng. Bởi vì tiêu-chuẩn tôi nói là phải gọn gàng, ngăn nắp, thế này thế khác chẳng hạn.

Nhưng mà khi tôi đi đến nơi khác như về miền tây một tháng trời, tôi trở về, tôi thấy ở đâu người ta cũng có thùng xài, người ta cũng có chén để dùng, dao để dùng ... chớ người ta không có chết, mà mình tưởng không có mình coi, không có bực bội, không có giận hờn thì chắc người ta hết đồ xài, người ta chết hết trơn rồi! Té ra người ta cũng vẫn sống! Tôi đi nhiều chỗ, đến chỗ nào tôi cũng đưa ra một tiêu-chuẩn, mình cứ trụ trên chỗ mình lo, rồi mình giận hờn thương ghét đủ thứ; tại vì mình thấy mình nghĩ đúng quá, tốt quá mà người khác làm sai đi.

Đến lúc đó tôi mới thấy rõ rằng:

"Có mợ thì chợ cũng đông
Không mợ thì chợ cũng không vắng người!"

Tôi còn cái bịnh nữa là hồi đó tôi dạy về vệ-sinh, về vạn-vật học, dạy về truyền-nhiễm của bệnh sán lãi đó, thành ra tôi quen, tôi bắt rửa rau phải rửa ba lần và ngâm thuốc tím, nếu không thì ngâm nước muối. Rồi nước uống thì uống nước thiệt chín, khi ăn cơm phải rửa tay. Tôi thấy ai sai những nguyên-tắc đó là tôi bực dữ lắm. Vì tôi nghĩ rằng nếu không theo đúng nguyên-tắc vệ-sinh, người đó sẽ bịnh chết hoặc bụng sẽ đầy nhóc lãi đi.

Nhưng mà sau đó, đến năm 1983, khi mà tôi đi công-tác trên Trị-an, lên đó suốt một tuần, tôi và cô Thanh-châu chẳng tắm, chẳng rửa gì hết trơn; đến hồi ăn cơm, xúc gạo đổ nước vô, múc nước sình lắng trong để đổ vô gạo, còn rau thì chỉ luộc; còn tay mặt, chưn cẳng thì hoàn toàn khỏi rửa gì hết, mà tôi thấy trên đó người ta vẫn sống, chẳng ai chết hết trơn! Vậy mà hồi trưa đến giờ mình vẫn bực bội vì những thứ đó.

Thành ra khi hiểu chỗ này, Phật nói dường như chúng ta thấy như nói về cái gì đâu: "Cái tướng không của các pháp nó không sanh, không diệt, không cấu, không tịnh, không tăng, không giảm..." Mình tưởng là cái tướng nó nằm ở đâu, nhưng thật ra nói ở đây, chỉ đưa ra cho chúng ta thấy các pháp nó vốn sinh diệttùy duyên, nó không có giá-trị nào tuyệt-đối hết.

Cái thời tôi khoảng mười bốn, mười lăm tuổi, tôi nhớ cái làm đẹp lúc đó nhứt có lẽ là lần gỡ cái đầu, rồi đánh rối xịt keo lên, và tôi cho đó là đẹp nhứt. Bây giờ đây thì khác, tôi nhớ có lần tôi uốn tóc, tôi uốn cái đầu mà kiểu tóc nó quăn nên tôi phải đội khăn lông tôi ra đường, chớ tôi không dám bỏ khăn ra. Bây giờ tôi nhìn kiểu tóc hồi xưa đó, bây giờ họ gọi là kiểu xù lông nhím. Như vậy cái xấu hồi trước bây giờ thành cái đẹp, cái đẹp bây giờ coi chừng mai mốt thành cái xấu. Như vậy thì những giá-trị dơ sạch, phải quấy, tốt xấu, nó có là giá-trị vĩnh-viễn không? Hoàn toàn đâu có giá-trị! Cho nên mình nhìn biết nó là tùy duyên, thì tự nhiên ta không đưa ra một thước đo nào để biết cuộc đời này biến đổi cho mình hết.

Quý vị có nhớ hôm trước tôi có kể câu chuyện tướng cướp Hy-lạp không?

Anh chàng đó có cái giường nằm. Anh ta đặt ở giữa đường, dưới chân núi. Ai đi qua anh cũng bắt leo lên cái giường này. Người nào dài hơn thì anh ta chặt bớt một khúc đi, mà ngắn hơn thì anh ta kéo cho dài ra. Mà chặt hay là kéo kiểu đó thì cũng chết con người ta rồi. Người nào nằm vừa trong cái giường này thì anh ta thả cho về; bằng cách quảng-cáo thì anh tướng cướp nổi danh ngang cái giường này, và ai đi ngang qua đấy cũng run hết trơn. Quý vị mới thấy cái giường này đo theo cái tầm của anh tướng cướp này, mà trên thế-gian này, người lùn người cao, chớ ai đâu một kiểu như vậy? Mà hễ gặp một cái là anh bắt leo lên. Mình có cái giường như vậy không?

Có chớ sao không! Để tôi chỉ cho quý vị thấy. Hôm trước có mấy cô ở đây cằn nhằn:
"Thưa thầy, mấy Phật-tử Bình-dương ở đây đi học có một nhóm không chịu đi học, ra vườn dừa tâm tình ở ngoài ấy!"
Thầy mới nói:
"Người ta có tu như con đâu mà bắt người ta không được tâm tình?"
Cô đó đã mời quý vị leo lên cái giường rồi. Cái giường của cô ta là không được tâm-tình. Và mình thấy người ta tâm-tình rồi mình bực chớ gì! "Hồi xưa ai cấm duyên bà, bây giờ bà già bà cấm duyên tôi!"

Thành ra mình tưởng cái giường của tên cướp là chuyện thần-thoại Hy-lạp; chớ thiệt ra chuyện này nói lên mỗi chúng ta có một khuôn khổ nào đó, gặp người nào là chúng ta bắt leo lên. Vừa nhìn người này thấy hợp một hai điểm nào đó là rồi "A! Hèn lâu mới gặp tri-âm!" Nhưng mà xích lại ở gần mình thấy cái tật của họ, họ sẽ thò tay chân ra khỏi cái giường của mình; thế là mình sùng, mình hỏi "Tại sao bà thay đổi? Hồi trước đây không có mà bây giờ sao tệ quá!"

Nhưng mà cái giường của ông này còn có cái thước đo cố-định, vì bằng gỗ nó không có nở. Còn mình, hôm nay mình vui vẻ mình không có ưa những người có cái mặt một đống, nhìn vô thấy như là ai ăn hết của; nhưng ngày mai mình buồn, mình không ưa những người nói nhiều, cái miệng tía lia như vậy ai mà chịu nổi!

Như vậy, người bạn mình lúc mình muốn họ cười nói như mình, lúc thì mình muốn họ im ỉm, mà khi đó họ cũng thay đổi như mình. Họ cũng bắt mình theo cái khuôn của họ. Do đó mà chúng ta làm khổ lẫn nhau.

Thành ra ở đây tôi đưa ra cái câu này, có nghĩa là phải nhìn các pháp nó biến chuyển, nó tùy duyên chớ không thể lúc nào cũng vậy. Chẳng hạn như chúng ta, ở đây áp dụng cái này ở trong tu viện. Có những người mới vô chùa thì rất là siêng năng, mình sai cái gì cũng được hết, mà họ ở ba bốn năm mình sai không được, tức thì mình nói sao thay đổi. "Nhứt niên Phật tại tiền, biết như vậy hồi đó mình không có nhận nó vô tu!" Mà nếu chỉ cần áp-dụng cái không này thôi thì mình sẽ thông-cảm với người này. Hồi mới vô nó khác. Hồi vô lâu nó khác. Có thể ở lâu ngày rồi mệt mỏi đi, hoặc là bệnh hoạn cho nên mình sai nó, nó không nhậm lẹ. Đó là điều thứ nhất. Điều thứ hai nữa, giả sử người mới vô một mình mình sai, có thể ba chục, bốn chục người sai được; mà họ làm riết họ cũng đuối chớ gì? Lâu lâu vô làm biểu-diễn thì được, chớ biểu-diễn ba bốn năm trời có thánh hay là người máy cũng phải rã.

Thành ra cái kiểu tùy duyên này chúng ta thông-cảm vô cùng. Không có phải trái, tốt xấu nào cố-định mà là do duyên thôị Hiểu rõ như vậy tức là hiểu được tướng Không của các pháp.

Chẳng hạn như bây giờ, một ông chồng mới cưới được một cô vợ thật đẹp. Thời-gian sau than: "Vợ tôi bữa nay bà ấy thành khủng-long, bà chằng!" Nhưng mà phải hiểu tại sao một cô thiếu-nữ đẹp cỡ đó mà về nhà mình bây giờ biến thành bà chằng. Cô ấy hồi ở nhà với ba má sáng ngủ tới chín giờ dậy rồi bận đồ đi chơi, trưa về có sẵn cơm ăn, thành ra cô ta không đẹp như tiên sao được! Mà bây giờ mười một giờ khuya cô ta còn xắt chuối cho heo ăn, ba giờ thức dậy thay tã cho con, năm giờ giặt đồ, rồi làm việc, vừa lo cho chồng vừa lo nuôi con, vừa chăm sóc gia-đình hai mươi bốn trên hai mươi bốn, không có một giờ nghỉ ngơi, thành ra không biến thành bà chằng sao được!

Rồi cô vợ khoe: "Chồng em hồi xưa hào hoa phong-nhã, dễ thương hết sức, mà bây giờ nhìn ông ta tôi phát chán, như ông nghiện vậy!" Không nghiện sao được! Hồi xưa, ăn ở nhà với ba má bận đồ đẹp mới ra đường chơi, bây giờ vừa chạy gạo, vừa nuôi con, vừa nuôi vợ, mà làm ăn hai mươi bốn trên hai mươi bốn, không thì giờ nghỉ ngơi, về nhà bị vợ sai tắm heo, tắm con nữa, đi mua gạo nữa, thành ra ròm như ông hút xì-ke là phải rồi!

Như vậy, chúng ta thấy, các pháp không bao giờ cố-định ở một chỗ, không chỉ năm uẩn của mình thôi mà năm uẩn thân và tâm mình cũng thay đổi. Hiểu rõ để thấy không bao giờ có cái gì nhấtđdịnh trong đó, thì hiểu như vậy là hiểu cái tướng không của các pháp. Cái này là biểu mình nhìn sự vật y như nó hiện-diện, không méo mó.

Như vậy thì giả sử như mình gặp người bạn mình hôm qua đương gây lộn, cái mặt bà ta đương nổi sân mà ngày nay mình đến mình gặp bà ta đang vui vẻ thì đừng có bao giờ đem cái hình ảnh của ngày hôm qua gán cho ngày hôm nay. Thường thường giả sử mình có người bạn nào đó, một ngày họ có biết bao nhiêu tâm-niệm, mà đã chỉ chụp một cái tâm-niệm là sân thôi và mình kết tội cho rằng người này là cái người sân, và kết tội như vậy là người không hiểu lý không.

Chẳng hạn quý vị vô đây, thường thường ở đây một tuần lễ, chủ nhật là tôi tiếp khách cư-sĩ, còn sáu ngày kia tôi chỉ dạy các cô em tôi thôi. Quý vị đến đây, ngày chủ nhật có thể tôi ráng tôi biểu-diễn, tôi vui vẻ hết mình. Tại vì tôi chỉ có biểu-diễn mười hai tiếng đồng-hồ thôi. Nhưng mà sau đó, quý vị đến đây ở, tưởng tôi lúc nào cũng vui thì đó là lầm. Cái vui này cũng tùy duyên. Khi nào biểu-diễn mới vui, chớ ngày thường cũng quạu dữ lắm!

Hiểu rõ cái tùy duyên này để chúng ta không kết một pháp nào cố-định ở một vị-trí nào hết. Cho nên ở đây mới nói là không phải hẳn là sinh diệt, là sạch, là dơ, là tăng, là giảm mà những cái đối đãi hoàn toàn không cố-định. Hiểu như vậy là hiểu cái tướng không.

"Cho nên trong cái không đó không có sắc, thọ, tưởng, hành, thức; không có nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, không có nhãn giới, cho đến không có ý thức giới, không có vô-minh, cũng không có diệt vô-minh, cho đến không có lão-tử cũng không có hết lão-tử; không có khổ tập diệt đạo, cũng không có trí cũng không có đắc. Vì không có gì đắc hết."

Như vậy ở đây mới chỉ rằng trong cái không đó hoàn toàn cũng không có những cái pháp như sau:

1-Pháp thế-gian:

a) Ngũ ấm: sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Nhớ là không có, ở đây không có nghĩa hoàn toàn không có mà chỉ tùy duyên thôi. Tùy duyênchúng ta có cái thân và tâm như thế này. Mai một đổi cái duyên khác, ta có cái thân và tâm khác.

b) Lục căn: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.

c) Lục trần: Là những đối tượng của sáu căn. Quý vị hiểu sáu căn. Ví dụ con mắt nhìn thấy tấm bảng thì đây gọi là mục-trần, nghe tiếng gõ thì đây là thinh-trần, hửi thấy mùi phấn thì mùi phấn là hương-trần, rờ thấy nhám thì đây là xúc-trần, le lưỡi thấy mặn nhạt thì đó là vị-trần, không nhìn thấy tấm bảng mà mường tượng thấy tấm bảng thì đó là pháp-trần. Thấy quý vị đang ngồi ở đây gọi là sắc-trần. Nghe tiếng lao xao của quý vị là thinh-trần. Mùi mồ hôi của quý vị gọi là hương-trần. Liếm mồ hôi mặn gọi là vị-trần. Rờ thấy quý vị là xúc-trần. Quý vị ra về rồi mà còn nghe được mùi mồ hôi thì đó là pháp-trần. Tất cả những cái đó đều tùy duyên chớ không có gì cố-định hết.

d) Mười tám giới: Sáu căn tiếp xúc với sáu trần sẽ sinh ra sáu cái nhận biết. Những cái nhận biết nầy cũng vô-thường hết. Chẳng hạn con mắt nhìn về cái bông này đẹp, ngày mai buồn tôi nói cái bông này thấy ghê. Những cái nhận biết đó cũng sai lầm và không có giá-trị cố-định. Mười tám giới bao gồm sáu căn, sáu trần, sáu thức. Cái này cũng thuộc về cái không, có nghĩa là không cố-định.

2- Pháp xuất thế:

a) Mười hai nhân-duyên

b) Tứ đế
Đó là Phật tạm đặt ra thôi chớ thật ra đâu có gì cố-định.
Như vậy thì pháp thế-gian và pháp xuất thế-gian và chính cái đắc này nó hoàn toàn không có một giá-trị cố định mà chỉ tùy duyên thôi. Đó là lời mà Đức Phật giải thêm.
Đức Phật kết luận bằng lời khuyến khích như thế nào?
Khuyến khích như thế này là:

"Chư vị Bồ-tát đều nương theo Bát-nhã Ba-la-mật đa này cho nên tâm các ngài không hề quái ngai. Do không quái ngại cho nên không hề sợ hãi, xa lìa hết điên đảo mộng tưởng cứu cánh Niết-bàn."

Như vậy, bây giờ Đức Phật mới xác định: Chư vị Bồ-tát do nương Bát-nhã nên có những khả-năng như sau:

1- Các ngài vô-ngại.

Ngại và vô ngại khác nhau.
Giả sử tôi đi đến đây gặp cái bảng tôi đi không được thì gọi là cái bảng làm ngại tôi. Cái ngại của thân không nói là vị Bồ-tát vô ngại, chỗ này cái ngại của tâm: Ví dụ :
"Đi ra Thiền-chiếu ghé mua dùm một hũ nước tương!" Quý vị nói:
"Không, tôi không tới đó được!" Nói:
"Tại sao?" Bảo:
"Tôi ngại lắm."
"Sao ngại?" Trả lời:
"Tôi trước đây gây lộn với cô bán tương ở đó."
Như vậy cái vô ngại ở đây được chỉ: Khi chúng ta còn mê lầm thì chúng ta có nhiều trở ngại lắm.

Có nhiều con đường mình đi qua không được, không phải vì người ta rào kẽm gai, mà tại có người mình không ưa đứng đó. Cái đó là cái ngại chớ gì? Những cái ngăn ngại này là những cái ngại của tâm-lý, khi mà chúng ta hiểu bằng trí-tuệ bát-nhã rồi thì không có gì ngại chúng ta trên thế-gian này hết. Như vậy thì tất cả trở ngại về thân thì có mà trở ngại về tâm thì không.

Cái ngại về tâm thường thường làm mình khổ. Luôn luôn có một cái gì đó ngăn ngại làm cho chúng ta nhìn mọi người không có rõ ràng. Quý vị thấy, có những người mình ghét, mình gặp mặt mình ngó chỗ khác à, không biết ai cấm mà mình nhìn không được! Nói chuyện thì nói trên trời dưới đất, nói trỏng trỏng, chớ không nói với họ được. Cái đó gọi là "ngại". Mà nếu vướng vào trí-tuệ này thì chúng ta sẽ hết ngại. Bằng cách nào? Là vì con người đó, thân cũng thay đổi, tâm cũng thay đổi, ngày mà mình gây lộn với họ là họ sân, mà bữa nay là họ hỷ, thì mình cũng thay đổi. Và người khác cũng thay đổi. Thì mình chấp, mà sao chấp người ta mà không chấp mình? Hiểu như vậy cho nên chúng ta mới đạt đến cái vô-ngại. Là phải quán mới hết được.

Chuyện một vị thiền-sư là ngài Bạch-ẩn, khi ngài tu và được nổi danh là Phật sống, thiên-hạ đến quy-y và cúng kiến ngài biết bao nhiêu mà kể; tình cờ trong làng có một cô gái bị mang bầu, mà cô ta không khai tác-giả cái bào thai là ai. Cha mẹ tra khảo riết rồi cô ta mới chỉ "ông Phật sống là tía đứa nhỏ trong bụng tôi đây!" Khi đó người ta mới đồn rằng ngài Bạch-ẩn là "ông Phật chết", mà ngài cũng làm thinh, ngài không nói năng gì hết.

Bữa đó, khi cô sinh ra đứa con thì bà ngoại thằng bé mới ẵm nó bỏ trước am ngài. Ngài đành phải nuôi đứa con, mà không có sữa, hơn nữa ngài sống theo khất-thực; mỗi bữa ôm bình-bát đi xin cơm thì phải dắt đứa con nít đó đi vô xin bú thép.

Chuyện xảy ra thật là trái tai gai mắt, nhưng mà biết bỏ nó cho ai. Ngài nuôi đứa bé như Quan-âm Thị-kính nuôi vậy đó. Bà Quan-âm là đàn bà, nuôi không có gì tội-nghiệp nhiều, mà ngài là đàn ông ngài nuôi rất là tội-nghiệp. Người ta kể rằng khi ngài ngồi thiền, thằng bé nó bò lổm ngổm quanh ngài, tức là săn sóc rất là cực cái thằng bé đó. Cho đến khi ba thiệt của nó trở về thì có đám cưới xảy ra, và người ta mới đến xin lỗi ngài, bế thằng bé đó đi. Khi đứa bé được bồng đi rồi, người ta mới đồn ngài là "ông Phật sống" trở lại.

Như vậy, quý vị thấy ngài là ông Phật sống hay Phật chết? Là do cái dư-luận bên ngoài đặt, chứ thật ra đối với ngài, hiểu rõ xác thân này vô-thường, tâm của mình cũng sinh diệt vô-thường, cho nên ngài hoàn toàn không giận gì hết. Và ngài hoàn toàn không nói, không giải-thích, không minh-oan gì hết. Nhưng mình trong trường-hợp đó chắc thắt cổ tự-vận quá! Oan muốn chết, phải không? Sở dĩ chúng ta không hiểu được những cái đó còn ngại, không nhận được những cái đó là vì chúng ta thấy năm uẩn mình là cố-định.

Thành ra cái danh nếu mình không có, không biết làm thơ gì hết mà người ta gọi mình là thi-sĩ thì mình nhận được, nhưng mà mình không ăn cắp người ta bảo mình ăn cắp thì mình không chịu. Là vì cái danh thi-sĩ nó làm cho con người mình hào hoa phong-nhã ra, còn cái danh ăn cắp mà lỡ mang vào thân bị người ta chê; cho nên chúng ta chỉ nhẫn được trong hoàn-cảnh chúng ta không có mà nó đem lợi lộc, là danh hoặc là tài, còn nếu mà những cái gì nó làm hại mình về thân về tâm thì mình thấy khó chịu.

Nhưng mà ở đây, vị Bồ-tát này hiểu rõ ngũ-uẩn là tùy duyên nên thấy nó không có cái gì cứng chắc cố-định trong đó; cho nên hiểu như vậy rồi, các Ngài vô-ngại. Cho nên muốn lướt thắng hết trở ngại do cầu-bất-đắc, oán-tắng-hội đó thì chúng ta phải làm sao nương vào trí-tuệ này, thấy rõ năm uẩn của mình là biến chuyển. Người bạn mình gặp ngày hôm qua họ sân, nhưng bữa nay họ hỷ, họ đang vui vẻ, họ cười với mình, thì mình cười với họ chớ có gì phải ngại, quay mặt đi chỗ khác! Các vị Bồ-tát, do nương vào Bát-nhã, thấy năm uẩnsinh diệt, là tùy duyên, cho nên các ngài mới đạt đến cái vô-ngại.

2- Do vô-ngại nên không sợ, không còn sợ một cái gì hết!

Thường thường mình sợ cái gì? Sợ già, sợ bệnh, sợ chết, sợ không thành thật chẳng hạn, tức là hiểu rõ cái thân của mình là nó già thì dù có sợ nó cũng già, có sợ nó cũng chết. Mà bây giờ tiếng khen, tiếng chê hoàn toàn không có mập béo gì thêm thì bây giờ chúng ta hiểu rõ được cái đó rồi chúng ta không còn sợ cái gì trên thế-gian này. Mình sợ là sợ xảy ra cho mình, chớ xảy ra cho người khác mình chịu nổi chớ! Thành ra hiểu rõ năm uẩn này là tùy duyên và không thiệt rồi thì chúng ta đạt đến cái không sợ.

3- Cái điều nữa là thấy đúng đắn cho nên không gọi là điên đảo.

Điên-đảo là thấy sai lầm đi. Người ta biên chữ ra là do người ta học, mà mình dịch ra là người ta chửi mình, rồi gây lộn với người ta. Cái đó tức là điên-đảo chứ gì? Người ta giết lợn, mua rượu đãi mình, mà diễn ra là người ta phản mình rồi giết người ta, thì cái đó là điên-đảo. Ở đây, thấy đúng, sai thực ra sao, mình hiểu rõ như vậy thì cái đó gọi là thấy đúng chánh-kiến cho nên không điên-đảo, và do đó mà đạt được tịch-diệt Niết-bàn, có nghĩa là tâm vắng lặng không còn phiền-não; và đạt đượctâm không còn phiền-não, do đó phát-huy khả-năng nhớ quá-khứ, biết tương-lai, gọi là thiên-nhãn và túc-mệnh-thông.

Sau khi trình-bày như vậy rồi, Đức Phật giới-thiệu cho mình: Thấy rõ tánh không của các pháp có nghĩa là bất cứ sự việc gì, chúng ta cũng biết nó không có một giá-trị cố-định, nó tùy duyên thay đổi. Hiểu được như vậy rồi, Đức Phật mới nói: chư vị Bồ-tát đều do nơi đó mà các Ngài được vô-ngại, được không sợ hãi và không điên-đảo, đạt đến cái tâm an-lạc. Ngài nói tiếp:

"Ba đời chư Phật cũng nhờ vào đó mà được thành đạo."

Cuối cùng có câu thần-chú; câu này nếu ta thảo theo văn-học thì đến thời Bà-la-môn giáo phục-hưng thì họ xài thần-chú, thì họ có những chú gọi là chú đại-thần, chú đại-minh, và đọc lên nó linh vô cùng. Đức Phật mới nói:

"Cái trí bát-nhã này là thần chú lớn, minh chú lớn, là chú vô thượng chú, ta chỉ nương vào nó là vượt qua được tất cả khổ."

Thành ra trí-tuệ Bát-nhã nó có công-năng còn hơn mấy thần-chú nữa. Đó là lời xác-định để chúng ta vững niềm tin và để theo truyền-thống Phật-giáo thì giữ nguyên câu chữ Phạn không dịch lại là:

"Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ-đề tát bà ha"

Nếu dịch ra có nghĩa là "Cố gắng, cố gắng, cố gắng vượt qua bờ bên kia"

Trong khuôn khổ thời-gian chỉ có một giờ ba mươi phút, tôi chỉ cố gắng trình-bày cho quý vị toa thuốc như thế này:

Có những người trước như mình đã khổ, các ngài áp dụng lời Phật dạy mà hết khổ. Áp dụng bằng cách nào? Các khổ thân này không có cách nào chúng ta tránh được. Có bệnh phải đi nhà thương uống thuốc, nhưng mà cái khổ chúng ta tránh được ở đây là cái khổ tâm. Nhưng thường thường khổ thân không làm cho chúng ta khổ, mà cái khổ tâm này nó làm cho mình khổ lắm. Người ta đói, chưa chết, nhưng một cơn buồn có thể làm cho mình tự-vận chết liền.

Như vậy để giải-quyết cái khổ tâm này cần một điều là thấy cho rõ năm uẩn của mình là không, không có một cái gì cứng chắc mà luôn luôn thay đổi theo thời-gian, theo không-gian. Nắm vững cái đó, chúng ta đủ để tu rồi. Đó được gọi là quán-chiếu bát-nhã.

Bây giờ là cách thực-hành. Cách thực-hành ở đây được chia ra làm ba loại, và quý vị thấy cách nào hợp với mình thì thực-hành:

Cách thứ nhứt gọi là thật-tướng bát-nhã.
Cách thứ nhì gọi là quán-chiếu bát-nhã.
Cách thứ ba gọi là văn-tự bát-nhã.

Trước khi hiểu ba cách về danh-từ: Thật-tướng, Quán-chiếu, Văn-tự, tôi xin mượn ba thí dụ:

Có anh chàng đó điên, do điên cho nên nói mẹ mình là kẻ thù. Do thấy bà mẹ là kẻ thù cho nên cứ muốn giết bà mẹ thôi. Muốn chữa bệnh anh chàng điên này, mình mới nói thế này: "Bà mà anh muốn giết đó là mẹ của anh!" Thiệt ra bà ấy sinh ra anh thiệt, mà không biết khùng hay sao mà anh ta thấy bà ấy là kẻ thù mình. Thành ra bây giờ, làm sao giúp anh ta bỏ ý định giết, anh phải nói thế này: "Bà này là mẹ tôi, bà này là mẹ tôi".

Cho nên anh chàng điên về nhà cứ nói thế này "Bà này là mẹ tôi, bà này là mẹ tôi", mà tại sao phải nói như vậy? Là tại vì điên quá đi, hễ ngừng nói là anh ta giết mẹ. Thành ra khi còn nói vậy là còn điên. Trong khi nói như vậy, anh ta quán chiếu bà này như là mẹ mình. Nhưng thực ra bà ta là mẹ thiệt. Vì thấy là kẻ thù cho nên ráng quán là bà mẹ mình.

Cho đến khi anh ta hết điên rồi, thì anh ta khỏi cần nói lảm nhảm "Bà này là mẹ mình", mà cũng không ráng coi là mẹ, vì thiệt sự là mẹ rồi. Như vậy mình thấy sự thật đó lúc nào chúng ta cũng có trí-huệ bát-nhã hết, mà không biết sao chúng ta quá méo mó cho nên bây giờ, thường thường mình phải nói là "Năm uẩn là không". Phải nói để trấn-an, nếu không nó thành ra có. Mà còn nói lảm nhảm như vậy là còn thấy thiệt, còn khổ. Khi nào chúng ta hoàn toàn không còn khổ nữa thì sống với thật-tướng này, lúc đó không còn có sự dụng-công nữa.

Thành ra cái pháp thứ nhất là cái pháp khôngdụng công mà hằng sống với nó gọi là vô-công dụng-hạnh. Là những người tỉnh, không cần quán mẹ mình là mẹ mình. Cũng như bây giờ, tôi thấy ghét quý vị, tôi không cần nói lời phân bua gì hết. Giả sử bữa nào tôi kêu bà Từ-hóa, tôi nói:

"Cô Từ-hóa lại đây, tôi nói cho cô nghe, tôi không có chấp nhứt, tôi không có giận hờn, tôi không có nói cái gì cô hết!"

Thì cô Từ-hóa sẽ hiểu khôn rằng là tôi có cái gì trong bụng, tôi mới nói kiểu đó. Còn tôi còn thiệt tình, tôi không cần kêu nói gì hết. Có gì làm tôi sùng trong bụng tôi mới nói kiểu đó. Còn tôi không sùng thiệt tình, tôi không cần kêu nói gì hết.

Thành ra không còn tu, không còn dụng công quán chiếu thì người đó ở trạng-thái Thật-tướng Bát-nhã. Hạng này quý vị nào vô được đây? Khỏi nói! Nhưng hai hạng này là cách chúng ta đang làm đây.

THẬT-TƯỚNG BÁT-NHÃ

Hôm trước, nói thí dụ về bàn tay, kể rằng có anh chàng đó đi ra trận, bị người ta bắn gãy tay, trở về, nghĩa là bàn tay này không có, nghĩa là còn cánh tay thôi, nhưng không biết có chứng bệnh ra sao, mà đêm nào ngủ, anh cũng nhức chỗ bàn tay cụt này.

Bàn tay không có mà thấy nhức nhối chỗ bàn tay. Bệnh đó là bệnh tưởng chớ gì? Anh ta mới đến gặp ông bác-sĩ. Bác-sĩ hỏi anh đau làm sao? Anh ta mới rên, nói:

"Đau quá, ăn không được ngủ không được, nhức nhối quá!"

Bác-sĩ bảo:
"Nhức chỗ nào, đưa tôi coi?" thì anh ta kiếm hoài, không biết sao để đưa chỗ nhức ra. Anh ta mới nói:
"Tôi nhức ở chỗ tôi đưa không được, tôi nhức ở chỗ mất tiêu rồi đó!"
Khi đó ông bác sĩ mới bảo:
"Như vậy thì tôi chữa bệnh cho anh rồi!"
Tại vì bàn tay không có thì bệnh không có, bệnh không có thì thuốc không có. Anh này sau khi gặp bác-sĩ về hết bệnh luôn.
Trường hợp này là trường hợp số một.

Trường-hợp của tổ Bồ-đề-đạt-ma gặp tổ Huệ-khả, nói rên như mình nè:
"Tâm con bất an, xin ngài dạy con pháp an-tâm". Ngài Bồ-đề-đạt-ma nói:
"Đâu, đưa cái tâm bất an cho ta coi?" Thì ngài Huệ-khả nói:
"Dạ, con kiếm không ra!"
Ngài Bồ-đề-đạt-ma nói:
"Như vậy thì ta đã vì ông dạy cho pháp an-tâm rồi!"
Xong một lần gặp gỡ thì thành tổ liền. Giống như anh bệnh đó, đến kiếm không ra bàn tay để đưa cho bác-sĩ khám là hết bệnh.

Trường-hợp thứ hai, như ngài Tăng-xán đến với ngài Huệ-khả:
"Thưa thày, con nghiệp-chướng nặng nề, xin thày dạy con pháp sám-hối!" Ngài bảo:
"Đưa cái nghiệp ra cho ta coi", thì Tăng-Xán bảo:
"Bẩm, con tìm cái nghiệp không ra!"
"Như vậy ta đã vì ông dạy pháp sám-hối rồi".

Trường-hợp thứ ba là ngài Đạo-tín. Đạo-tín đến hỏi ngài Tăng-xán:
"Xin ngài chỉ con pháp giải-thoát." Ngài Tăng-xán hỏi lại:
"Ai trói ông?" Khi đó ông ta xem lại, thật có ai trói mình đâu!
"Dạ bẩm không ai trói con hết!"
Ngài liền hết bệnh.

Nếu chúng ta được cái hạng này, chúng ta rên nào tâm mình bất an, xao-xuyến, mệt-mỏi, người này ăn hiếp mình, người kia làm phiền mình, nói xấu mình; thì ông thầy cao tay ấn bảo: "Cái người đó đâu, chỉ cho tôi coi?" Thì thấy mình đi tới chỉ có một mình mình thôi, nhưng mình vu-oan giá họa cho không biết bao nhiêu người. Thành ra ngay lúc thấy rõ là do mình tự tạo ra, mình tưởng-tượng, mình cảm tưởng ra là mình phiền-não, thì ngay lúc mình thấy rõ năm uẩn là không, thực ra nó đâu có thiệt.

Những người làm phiền mình, những cảnh làm phiền mình, hiện bây giờ không có, tự mình tưởng-tượng ra mình khổ thôi. Ngay khi khám-phá rõ ra điều đó rồi, thấy rõ năm uẩn là không rồi, người ấy hết bịnh. Một lần thôi là đủ rồi. Là hạng nhất, khi hết rồi như vậy họ sẽ sống với cái thấy biết cũng như ngày xưa, nhưng có cái khác là không phiền-não. Gọi là Thật-tướng Bát-nhã.

QUÁN-CHIẾU BÁT-NHÃ

Trường hợp thứ hai. Cũng anh bệnh như vậy. Đến bác-sĩ cũng nói bắt mạch y vậy nhưng không hết. Anh nói với bác-sĩ thế này: "Tôi bệnh, bác-sĩ cứ đưa thuốc cho tôi đi!" Ông bác-sĩ mới đưa hai gói, một gói trong uống, một gói ngoài thoa. Nhưng mà uống anh ta biết bỏ vô miệng chớ gì, nhưng mà thoa, thoa chỗ nào?

Thành ra đem thuốc về uống, anh ta bỏ vô miệng. Nhưng khi thoa anh ta tìm không ra cái chỗ thoa. Trong lúc kiếm hoài không ra chỗ thoa, anh mới khám phá ra cái đau này là giả tưởng. Vì bàn tay không có thì lấy gì đau? Cho nên anh ta trở lại mắc đền ông bác-sĩ, bắt trả lại tiền thuốc. Tay tôi không có mà bán thuốc xức tay. Bán thuốc như vậy là lỗi ở ông thầy và bắt trả lại tiền. Đây là trường hợp của các ông Thiền-sư, sau thời-gian dụng công tu, đại ngộ rồi đi kiếm ông thầy mắc đền. Thành ra có những vị Thiền-sư, khi đệ-tử hỏi thầy dạy con phép an-tâm hay tu-hành. Ông bảo: "Tao không chỉ đâu, chỉ rồi, mai mốt ông ngộ, ông chửi tao chết!"

Ở đây, quý vị đòi tu, tôi nói như vầy: "May bồ-đoàn hai tấc, sắm một tấm tọa-cụ, ăn chay, lễ bái ..." quý vị làm được. Khi xoay qua bắt chước sửa đổi thân mình và sửa đổi hoàn-cảnh bên ngoài, tức là trong uống thì được, nhưng cái thoa này, cái khổ này, bắt nguồn từ chỗ nào? Trong khi loay hoay tìm cái tâm để thấy cái khổ thì không có. Đó là do cái tưởng-tượng, thì mình sẽ hết bịnh như cái hạng này. Gọi là Quán-chiếu Bát-nhã.

Sau thời-gian dụng công, chúng ta sẽ đạt đến trạng-thái quán-chiếu.

VĂN-TỰ BÁT-NHÃ

Trường-hợp thứ ba này là bệnh nặng, ông thầy đưa thuốc nào cũng không trị nổi. Bệnh cứ bệnh liên-tu bất tận, đau bất kể ngày đêm, lúc nào cũng thấy phiền-não hết trơn. Ông thầy mới hỏi:
"Có lúc nào ông bớt đau không?" Nói:
"Dạ, có!" Hỏi:
"Lúc nào?" Nói:
"Lúc con coi video cassette mà hay quá là con quên đau!"
Cũng như quý vị coi quên ăn quên ngủ vậy đó; anh bệnh này cũng vậy. Thầy mới bảo:
"Bây giờ ta bày cho ông, về nhà coi tuồng nào thiệt hay. Anh ưa tuồng nào?" Bảo:
"Con khoái Võ-tắc-thiên!"
"À, về mua bộ phim đó, khi nào thấy đau quá giở ra coi."
Anh ta giở ra coi; coi đến độ thuộc lòng bộ Võ-tắc-thiên này, anh ta vừa coi vừa ngủ gục, là anh ta đau trở lại. Khi đó đến ông thầy, hỏi:
"Có phim nào mới hay không?" Thầy bảo:
"Có phim mới!" Anh ta hết đau. Mà phim thuộc lòng cũ rồi thì anh ta đau.

Đây là loại này, đây là lối tu tôi đưa ra cho quý vị thấy. Bây giờ lúc nào mình cũng rên, mình khổ, mình buồn hết trơn; mà chúng-sinh thuộc loại này nó quậy dữ lắm, nó đã làm khổ nó mà còn làm khổ chung-quanh nữa. Bây giờ ông thầy mới đưa vào:

"Con nè, đây là cái phái quy-y; không còn tên là bà Bông nữa ngheo, mà con tên là Diệu-hoa, nghe không? Khi người ta nhắc là bà Bông thì có quyền chửi lộn, nhưng khi nói là bà Diệu-hoa thì nhớ là mình tu rồi!"

Nghĩa là phải có cái pháp-danh, quy-y cái đã; đem về máng cái phái quy-y để dòm lên thấy mà bớt chửi lộn với người ta đi.

Bây giờ khi nào mình bận đồ thường thì mình có thể gây lộn, chửi lộn, nhưng bận áo tràng hay áo vạt khách mà mình dữ quá người ta sẽ nói "Tu gì? Tu hú!" Và như vậy bắt buộc phải mặc đồ tu vô, đặng khi nào mình dữ thì người ta sẽ nói "Tu mà bận áo đó, mà dữ quá, không được!" Như vậy thì hạn-chế bớt hạng chúng-sinh dữ này đi.

Bây giờ, sắm một cái chuông, một cái mõ, khi nào giận ai quá thì lấy mõ mà gõ, cho nó hả hơi. Đặt ra những cuốn kinh để người ta vừa tụng vừa la cho nó hả hơi một lát. Trong lúc tụng như thế đó, tâm mình bớt tham, sân, si ...

Hết

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11506)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11832)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11012)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11217)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 11949)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12416)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10629)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17830)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11600)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9832)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10082)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12250)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15221)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11091)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14186)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 11959)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15152)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11856)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12302)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11068)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 11970)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10491)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12441)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13020)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14651)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12532)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16373)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19411)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 12994)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12544)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12147)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11692)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10779)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13365)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11848)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11722)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11488)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12622)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14362)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12479)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15516)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13460)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12750)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9743)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17851)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11038)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 8958)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12067)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 12910)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10201)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12071)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15150)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16478)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 11354)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14112)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19496)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14035)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24374)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10573)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
(Xem: 12368)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant