Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật Thuyết Kinh Thậm Thâm Đại Hồi Hướng

07 Tháng Ba 201507:43(Xem: 11735)
Phật Thuyết Kinh Thậm Thâm Đại Hồi Hướng

PHẬT THUYẾT KINH THẬM THÂM ĐẠI HỒI HƯỚNG


Việt dịch:
Thích Nữ Thuần Hạnh


Phật Thuyết Kinh Thậm Thâm Đại Hồi HướngTôi nghe như vầy ! Một thời đức Phật cùng với tám ngàn chúng đại Tỳ kheo trú ở vườn Cấp Cô Độc, Kỳ Thọ, nước Xá Vệ. Bấy giờ, Thế Tônđại chúng xung quanh trước sau mà thuyết pháp. Trong hội chúng đó có một vị Bồ tát, hiệu là Minh Thiên, rời chỗ ngồi đứng dậy, bày vai áo bên phải, gối phải sát đất, chắp tay cung kính bạch Phật :

- Bạch Thế Tôn ! Con có điều muốn hỏi, cúi xin Thế Tôn, vì con phân biệt giảng thuyết.

Phật dạy Đại Bồ tát Minh Thiên :

- Thiện nam tử ! Muốn hỏi điều gì cứ hỏi, chớ đừng phân vân. Như Lai tùy theo lời hỏi mà giải đáp.

Bồ tát Minh Thiên liền bạch Phật :

-Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?

Phật dạy Đại Bồ tát Minh Thiên :

- Lành thay ! Lành thay ! Minh Thiên ! Có thể hỏi Như Lai nghĩa này. Thầy đã từng ở trong thời quá khứ, chỗ vô lượng chư Phật gieo trồng công đức cúng dường chư Phật, thân cận thiện tri thức, có thể làm cho chúng sanh được phước báo an lạc, nên mới hỏi nghĩa sâu xa này. Lắng nghe ! Lắng nghe, khéo suy nghĩ !

Bồ tát Minh Thiên bạch Phật :

- Bạch Thế Tôn ! Con xin thọ giáo.

Phật dạy Minh Thiên :

- Chư Đại Bồ tát, ở chỗ chư Phật đời quá khứ, hiện tại, vị lai, tu thân hành từ bi, tu khẩu hành từ bi, tu tâm hành từ bi, chuyên tâm niệm Phật, hành trì công đức. Lại nữa Minh Thiên ! Đại Bồ tát phải nên đến điện thờ Thế Tôn Như Lai lễ bái cúng dường, gối phải sát đất chắp tay nhiễu quanh bên phải, rải hoa, đốt hương, treo cờ đèn, phan lọng, đủ các loại âm nhạc cung kính tôn trọng. Dùng các loại âm thanh hòa nhã ca ngợi nghĩa cú sâu xa, khen ngợi công đức Phật, hoan hỷ tán thán.

Phật dạy Minh Thiên :

- Vì sao Đại Bồ tát ở chỗ chư Phật đời quá khứ, hiện tại, vị lai tu tập thân hành từ, tu khẩu hành từ, tu tâm hành từ, nhớ nghĩ công đức Phật? Thiện nam tử ! Đại Bồ tát nên nhớ nghĩ Như Lai là bậc kiên cố, bậc Vô Thượng, bậc Tối Thắng, là chúa sư tử dõng mãnh vô tối, tự độ độ tha tự an, an cho người, tự diệt, diệt cho người, thuyết pháp chơn đế, chúng sanh an lập, tâm không dối trá, đầy đủ tịnh giới, sức lực vô úy, biện tài, vĩnh viễn trừ các tập chướng. Tự tại đối với pháp, bình đẳng với mọi người. Chuyên tâm nhớ nghĩ công đức Phật như vậy rồi, gối phải sát đất, rải hoa, đốt hương, treo cờ đèn, phan lọng, trổi âm nhạc cúng dường. Đây là Bồ tát tu tập thân hành từ.

Dùng âm thanh hòa nhã ca ngợi về cú nghĩa sâu xa thán tán công đức Như Lai vô lượng. Đây là Bồ tát tu tập khẩu hành từ. Nhơn nơi thiện căn của thân miệng nhớ nghĩ công đức Phật chí thành cung kính. Đây là tu tập tâm hành từ. Minh Thiên ! Đây là Đại Bồ tát ở chỗ chư Phật đời quá khứ, vị lai, hiện tại tu tập thân khẩu ý từ, thực hành chánh niệm.

Phật lại dạy Minh Thiên :

- Lại nữa, Đại Bồ tát ở chỗ các chúng sanh đời quá khứ, hiện tại, vị lai cũng nên tu tập thân hành từ, tu tập khẩu hành từ, tu ý hành từ, nhớ nghĩ các chúng sanh. Minh Thiên ! Vì các Đại Bồ tát ở chỗ chúng sanh trong ba đời tu tập thân, khẩu, ý hành từ, nhớ nghĩ chúng sanh. Như vậy, Minh Thiên ! Đại Bồ tát không sát hạt chúng sanh, không trộm cướp tài sản người khác, không tà dâm, không vọng ngữ, không ỷ ngữ, không lưỡng thiệt, không ác khẩu, không tham dục, không sân nhuế, không tà kiến.

Vì sao Bồ tát không sát hại chúng sanh? Đối với tất cả chúng sanh phải từ bi thương xót, nhớ nghĩ, tàm quí thương xót, vĩnh viễn xả bỏ dao gậy, không trộm cướp của người. Nếu ở làng xóm, hoặc chỗ vắng, có vật của người bỏ rơi, không cho không được lấy. Không tà dâm là nếu người nữ có chủ hay có cha mẹ, anh em, thân tộc bảo hộ, cho đến được cô ta tặng một cành hoa cũng không được khởi dục tưởng. Không vọng ngữ là nếu ở nơi làng xóm, hoặc chỗ vua mà làm chứng giúp người, nên thành thật, giữ lời, thà chết không nói dối, không nói hai lưỡi là thường ở chỗ người này người kia khởi tâm tưởng hòa hợp. Nghe được từ chỗ này không đến nói đằng kia. Nghe từ đằng kia không đến nói chỗ này. Không ác khẩulời nói nhẹ nhàng, khuyên lơn thưa hỏi họ trước. Trọn đời không dùng lời nói đau đớn, ác nghiệt, thô bạo nói với chúng sanh. Không ỷ ngữ là khi nói phải nói lời chơn thật, biết nghĩa mới nói. Vì lợi ích cho người mới nói. Tâm miệng không sai khác. Không tham trước là đối với tài vật của người không khởi lòng tưởng tham muốn, thấy ai đến lấy tâm không tham tiếc. Không sân nhuế là đối với tất cả chúng sanh, diệt trừ các sự sân hận khởi tâm từ bi thương xót, tâm lợi ích, tâm an lạc cho người. Tùy theo tất cả chúng sanh mà khéo nhiếp thọ. Không tà kiến là có cho có giúp có thuyết, có cha mẹ, có đời nay đời sau, có khổ vui, hành động có quả báothế gian. Có A la hán, tự biết thân mình sẽ chứng. Ta sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc cần làm đã làm xong, không thọ thân sau.

Minh Thiên nên biết ! Vị kia không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâmBồ tát tu hành thân từ. Không vọng ngữ, không hai lưỡi, không ác khẩu, không ỷ ngữBồ tát tu hành khẩu từ. Không tham, không sân, không tà kiếnBồ tát tu hành ý từ. Tu hành thân, khẩu, ý là Bồ tát nhớ nghĩ chúng sanh một cách bình đẳng.

Phật dạy Minh Thiên :

- Đại Bồ tát ở chỗ chư Phật đời quá khứ, vị lai, hiện tại tu hành thân từ, tu hành khẩu từ, tu hành ý từ. Và ở chỗ tất cả chúng sanh đời quá khứ, vị lai, hiện tại tu hành thân từ, tu hành khẩu từ, tu hành ý từ. Được quả báo công đức, hồi hướng Vô Thượng Bồ đề cho tất cả chúng sanh. Minh Thiên ! Bồ tát nào hồi hướng như vậy, gọi là Bồ tát tu thiện ít mà được quả báo to lớn, tạo nhiều công đức, phước báo vô lượng.

Phật dạy Minh Thiên :

- Khi Bồ tát này thành tựu vô lượng công đức, đem công đức ấy hồi hướng trí huệ vô lượng. Lại cùng tất cả chúng sanh hồi hướng về Vô Thượng Bồ đề. Ba loại công đức này có ba loại hồi hướng. Những gì là ba? Là quá khứ không, đương lai không, hiện tại không. Không có người hồi hướng, không có pháp hồi hướng, không có chỗ hồi hướng. Đại Bồ tát nên làm hồi hướng này. Khi làm việc hồi hướng này, ba chỗ đều thanh tịnh. Đem công đức thanh tịnh này hồi hướng về Vô Thượng Bồ đề cho tất cả chúng sanh. Làm việc hồi hướng này, không có phàm phu và pháp phàm phu, cũng không có tín hành, cũng không có pháp hành, không có tám hạng người, không có Tu đà hoàn hướng, Tu đà hoàn, không có Tư đà hàm hướng, Tư đà hàm, không có A na hàm hướng, A na hàm, không có A la hán hướng, A la hán, không có Bích Chi Phật hướng, Bích Chi Phật, không có Phật và người hướng Phật. Vì sao? Vì pháp tánh không duyên bất sanh bất diệt, không chỗ trú. Cho nên Đại Bồ tát dùng ba loại hồi hướng này ba loại công đức thanh tịnh hồi hướng về Vô Thượng Bồ đề cho tất cả chúng sanh. Bồ tát này hồi hướng rồi, lại nguyện : “Tôi sanh ra chỗ nào cũng thường gặp tam muội thậm thâm của chư Phật, thấy vô lượng Phật, thành tựu đa văn, trí huệ thanh tịnh. Thề không bỏ tất cả chúng sanh”. Khi thuyết như vậy, trăm ngàn trời người đều nguyện muốn vãng sanh về nước Phật A Súc.

Bấy giờ, Phật dạy tôn giả A Nan :

- Khi Ta thuyết pháp môn thậm thâm này, trăm ngàn trời người đều nguyện vãng sanh về nước Phật A Súc. A nan nên biết ! Đây, kia đều nên nguyện vãng sanh về cõi nước Diệu Lạc của Phật A Súc. Từ cõi Phật này đến cõi Phật khác cúng dường chư Phật, lắng nghe thọ trì chánh pháp, đắc Đà la ni, tu hành như điều thuyết, đều được thành tựu trí huệ bất tư nghì. Làm Phật trong nước ngũ trược đều đồng một hiệu là Cam Lồ Âm Vương Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác. Nên biết khi được thọ ký, trăm ngàn chúng sanh đều phát tâm Vô Thượng Bồ đề.

Khi ấy, Thích Đề Hoàn Nhơn bạch Phật :

- Bạch Thế Tôn ! Theo chỗ con hiểu nghĩa Phật thuyết, nên biết đại công đức này là công đức vô lượng, là công đức vô biên.

Phật dạy :

- Kiều Thi Ca ! Pháp này hoàn toàn thanh tịnh.

- Bạch Thế Tôn ! Kinh này tên gọi là kinh gì? Phụng trì thế nào?

- Kiều Thi Ca ! Kinh này gọi là Đại Hồi Hướng cũng gọi là hồi hướng pháp tánh thậm thâm. nên phụng trì như vậy.

Phật dạy Kiều Thi Ca ;

- Nếu có thiện nam, thiện nữ nào học kinh hồi hướng này, nên biết người này ắt đắc pháp Vô sanh nhẫn, có thể độ người chưa độ, trăm ngàn vô lượng chúng sanh an lạc.

Khi thuyết pháp này, chúng Tỳ kheo, thích Phạm thiên, trời, người, A tu la.v.v... nghe lời Phật thuyết đều hoan hỷ phụng hành.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 28948)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20678)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19412)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30479)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36414)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33195)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35539)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 20966)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21910)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25251)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25784)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 31236)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
(Xem: 18551)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25131)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23759)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28920)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20851)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31442)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25537)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29713)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22511)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25706)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23268)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25731)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23717)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40591)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23344)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22438)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22082)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23499)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 16955)
Con người khác với loài động vật ở chổ biết đặt vấn đề về giá trị của đời sống; sống như thế nào thì gọi là thiện là tốt hoặc ngược lại là ác là xấu?
(Xem: 23279)
“Nếu Phật tử cố ăn thịt. Tất cả thịt của mọi loài chúng sanh đều không được ăn. Luận về người ăn thịt thì mất lòng đại từ bi, dứt giống Phật tánh...
(Xem: 24301)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41085)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 18972)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20470)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27720)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38105)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 34058)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 36783)
Thiện namthiện nữ, nay các người lãnh thọ giới pháp rồi thì phải tôn kính mà vâng giữ, không được vi phạm giới pháp cần phải phụng trì.
(Xem: 23987)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29171)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60129)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27595)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68709)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24509)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 24473)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22675)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26347)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 26520)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 20805)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20045)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27541)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46404)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 53568)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23591)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21082)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 25555)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29244)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
(Xem: 188876)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi tam-bảo
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant