Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật Thuyết Kinh Thậm Thâm Đại Hồi Hướng

07 Tháng Ba 201507:43(Xem: 11736)
Phật Thuyết Kinh Thậm Thâm Đại Hồi Hướng

PHẬT THUYẾT KINH THẬM THÂM ĐẠI HỒI HƯỚNG


Việt dịch:
Thích Nữ Thuần Hạnh


Phật Thuyết Kinh Thậm Thâm Đại Hồi HướngTôi nghe như vầy ! Một thời đức Phật cùng với tám ngàn chúng đại Tỳ kheo trú ở vườn Cấp Cô Độc, Kỳ Thọ, nước Xá Vệ. Bấy giờ, Thế Tônđại chúng xung quanh trước sau mà thuyết pháp. Trong hội chúng đó có một vị Bồ tát, hiệu là Minh Thiên, rời chỗ ngồi đứng dậy, bày vai áo bên phải, gối phải sát đất, chắp tay cung kính bạch Phật :

- Bạch Thế Tôn ! Con có điều muốn hỏi, cúi xin Thế Tôn, vì con phân biệt giảng thuyết.

Phật dạy Đại Bồ tát Minh Thiên :

- Thiện nam tử ! Muốn hỏi điều gì cứ hỏi, chớ đừng phân vân. Như Lai tùy theo lời hỏi mà giải đáp.

Bồ tát Minh Thiên liền bạch Phật :

-Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?

Phật dạy Đại Bồ tát Minh Thiên :

- Lành thay ! Lành thay ! Minh Thiên ! Có thể hỏi Như Lai nghĩa này. Thầy đã từng ở trong thời quá khứ, chỗ vô lượng chư Phật gieo trồng công đức cúng dường chư Phật, thân cận thiện tri thức, có thể làm cho chúng sanh được phước báo an lạc, nên mới hỏi nghĩa sâu xa này. Lắng nghe ! Lắng nghe, khéo suy nghĩ !

Bồ tát Minh Thiên bạch Phật :

- Bạch Thế Tôn ! Con xin thọ giáo.

Phật dạy Minh Thiên :

- Chư Đại Bồ tát, ở chỗ chư Phật đời quá khứ, hiện tại, vị lai, tu thân hành từ bi, tu khẩu hành từ bi, tu tâm hành từ bi, chuyên tâm niệm Phật, hành trì công đức. Lại nữa Minh Thiên ! Đại Bồ tát phải nên đến điện thờ Thế Tôn Như Lai lễ bái cúng dường, gối phải sát đất chắp tay nhiễu quanh bên phải, rải hoa, đốt hương, treo cờ đèn, phan lọng, đủ các loại âm nhạc cung kính tôn trọng. Dùng các loại âm thanh hòa nhã ca ngợi nghĩa cú sâu xa, khen ngợi công đức Phật, hoan hỷ tán thán.

Phật dạy Minh Thiên :

- Vì sao Đại Bồ tát ở chỗ chư Phật đời quá khứ, hiện tại, vị lai tu tập thân hành từ, tu khẩu hành từ, tu tâm hành từ, nhớ nghĩ công đức Phật? Thiện nam tử ! Đại Bồ tát nên nhớ nghĩ Như Lai là bậc kiên cố, bậc Vô Thượng, bậc Tối Thắng, là chúa sư tử dõng mãnh vô tối, tự độ độ tha tự an, an cho người, tự diệt, diệt cho người, thuyết pháp chơn đế, chúng sanh an lập, tâm không dối trá, đầy đủ tịnh giới, sức lực vô úy, biện tài, vĩnh viễn trừ các tập chướng. Tự tại đối với pháp, bình đẳng với mọi người. Chuyên tâm nhớ nghĩ công đức Phật như vậy rồi, gối phải sát đất, rải hoa, đốt hương, treo cờ đèn, phan lọng, trổi âm nhạc cúng dường. Đây là Bồ tát tu tập thân hành từ.

Dùng âm thanh hòa nhã ca ngợi về cú nghĩa sâu xa thán tán công đức Như Lai vô lượng. Đây là Bồ tát tu tập khẩu hành từ. Nhơn nơi thiện căn của thân miệng nhớ nghĩ công đức Phật chí thành cung kính. Đây là tu tập tâm hành từ. Minh Thiên ! Đây là Đại Bồ tát ở chỗ chư Phật đời quá khứ, vị lai, hiện tại tu tập thân khẩu ý từ, thực hành chánh niệm.

Phật lại dạy Minh Thiên :

- Lại nữa, Đại Bồ tát ở chỗ các chúng sanh đời quá khứ, hiện tại, vị lai cũng nên tu tập thân hành từ, tu tập khẩu hành từ, tu ý hành từ, nhớ nghĩ các chúng sanh. Minh Thiên ! Vì các Đại Bồ tát ở chỗ chúng sanh trong ba đời tu tập thân, khẩu, ý hành từ, nhớ nghĩ chúng sanh. Như vậy, Minh Thiên ! Đại Bồ tát không sát hạt chúng sanh, không trộm cướp tài sản người khác, không tà dâm, không vọng ngữ, không ỷ ngữ, không lưỡng thiệt, không ác khẩu, không tham dục, không sân nhuế, không tà kiến.

Vì sao Bồ tát không sát hại chúng sanh? Đối với tất cả chúng sanh phải từ bi thương xót, nhớ nghĩ, tàm quí thương xót, vĩnh viễn xả bỏ dao gậy, không trộm cướp của người. Nếu ở làng xóm, hoặc chỗ vắng, có vật của người bỏ rơi, không cho không được lấy. Không tà dâm là nếu người nữ có chủ hay có cha mẹ, anh em, thân tộc bảo hộ, cho đến được cô ta tặng một cành hoa cũng không được khởi dục tưởng. Không vọng ngữ là nếu ở nơi làng xóm, hoặc chỗ vua mà làm chứng giúp người, nên thành thật, giữ lời, thà chết không nói dối, không nói hai lưỡi là thường ở chỗ người này người kia khởi tâm tưởng hòa hợp. Nghe được từ chỗ này không đến nói đằng kia. Nghe từ đằng kia không đến nói chỗ này. Không ác khẩulời nói nhẹ nhàng, khuyên lơn thưa hỏi họ trước. Trọn đời không dùng lời nói đau đớn, ác nghiệt, thô bạo nói với chúng sanh. Không ỷ ngữ là khi nói phải nói lời chơn thật, biết nghĩa mới nói. Vì lợi ích cho người mới nói. Tâm miệng không sai khác. Không tham trước là đối với tài vật của người không khởi lòng tưởng tham muốn, thấy ai đến lấy tâm không tham tiếc. Không sân nhuế là đối với tất cả chúng sanh, diệt trừ các sự sân hận khởi tâm từ bi thương xót, tâm lợi ích, tâm an lạc cho người. Tùy theo tất cả chúng sanh mà khéo nhiếp thọ. Không tà kiến là có cho có giúp có thuyết, có cha mẹ, có đời nay đời sau, có khổ vui, hành động có quả báothế gian. Có A la hán, tự biết thân mình sẽ chứng. Ta sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc cần làm đã làm xong, không thọ thân sau.

Minh Thiên nên biết ! Vị kia không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâmBồ tát tu hành thân từ. Không vọng ngữ, không hai lưỡi, không ác khẩu, không ỷ ngữBồ tát tu hành khẩu từ. Không tham, không sân, không tà kiếnBồ tát tu hành ý từ. Tu hành thân, khẩu, ý là Bồ tát nhớ nghĩ chúng sanh một cách bình đẳng.

Phật dạy Minh Thiên :

- Đại Bồ tát ở chỗ chư Phật đời quá khứ, vị lai, hiện tại tu hành thân từ, tu hành khẩu từ, tu hành ý từ. Và ở chỗ tất cả chúng sanh đời quá khứ, vị lai, hiện tại tu hành thân từ, tu hành khẩu từ, tu hành ý từ. Được quả báo công đức, hồi hướng Vô Thượng Bồ đề cho tất cả chúng sanh. Minh Thiên ! Bồ tát nào hồi hướng như vậy, gọi là Bồ tát tu thiện ít mà được quả báo to lớn, tạo nhiều công đức, phước báo vô lượng.

Phật dạy Minh Thiên :

- Khi Bồ tát này thành tựu vô lượng công đức, đem công đức ấy hồi hướng trí huệ vô lượng. Lại cùng tất cả chúng sanh hồi hướng về Vô Thượng Bồ đề. Ba loại công đức này có ba loại hồi hướng. Những gì là ba? Là quá khứ không, đương lai không, hiện tại không. Không có người hồi hướng, không có pháp hồi hướng, không có chỗ hồi hướng. Đại Bồ tát nên làm hồi hướng này. Khi làm việc hồi hướng này, ba chỗ đều thanh tịnh. Đem công đức thanh tịnh này hồi hướng về Vô Thượng Bồ đề cho tất cả chúng sanh. Làm việc hồi hướng này, không có phàm phu và pháp phàm phu, cũng không có tín hành, cũng không có pháp hành, không có tám hạng người, không có Tu đà hoàn hướng, Tu đà hoàn, không có Tư đà hàm hướng, Tư đà hàm, không có A na hàm hướng, A na hàm, không có A la hán hướng, A la hán, không có Bích Chi Phật hướng, Bích Chi Phật, không có Phật và người hướng Phật. Vì sao? Vì pháp tánh không duyên bất sanh bất diệt, không chỗ trú. Cho nên Đại Bồ tát dùng ba loại hồi hướng này ba loại công đức thanh tịnh hồi hướng về Vô Thượng Bồ đề cho tất cả chúng sanh. Bồ tát này hồi hướng rồi, lại nguyện : “Tôi sanh ra chỗ nào cũng thường gặp tam muội thậm thâm của chư Phật, thấy vô lượng Phật, thành tựu đa văn, trí huệ thanh tịnh. Thề không bỏ tất cả chúng sanh”. Khi thuyết như vậy, trăm ngàn trời người đều nguyện muốn vãng sanh về nước Phật A Súc.

Bấy giờ, Phật dạy tôn giả A Nan :

- Khi Ta thuyết pháp môn thậm thâm này, trăm ngàn trời người đều nguyện vãng sanh về nước Phật A Súc. A nan nên biết ! Đây, kia đều nên nguyện vãng sanh về cõi nước Diệu Lạc của Phật A Súc. Từ cõi Phật này đến cõi Phật khác cúng dường chư Phật, lắng nghe thọ trì chánh pháp, đắc Đà la ni, tu hành như điều thuyết, đều được thành tựu trí huệ bất tư nghì. Làm Phật trong nước ngũ trược đều đồng một hiệu là Cam Lồ Âm Vương Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác. Nên biết khi được thọ ký, trăm ngàn chúng sanh đều phát tâm Vô Thượng Bồ đề.

Khi ấy, Thích Đề Hoàn Nhơn bạch Phật :

- Bạch Thế Tôn ! Theo chỗ con hiểu nghĩa Phật thuyết, nên biết đại công đức này là công đức vô lượng, là công đức vô biên.

Phật dạy :

- Kiều Thi Ca ! Pháp này hoàn toàn thanh tịnh.

- Bạch Thế Tôn ! Kinh này tên gọi là kinh gì? Phụng trì thế nào?

- Kiều Thi Ca ! Kinh này gọi là Đại Hồi Hướng cũng gọi là hồi hướng pháp tánh thậm thâm. nên phụng trì như vậy.

Phật dạy Kiều Thi Ca ;

- Nếu có thiện nam, thiện nữ nào học kinh hồi hướng này, nên biết người này ắt đắc pháp Vô sanh nhẫn, có thể độ người chưa độ, trăm ngàn vô lượng chúng sanh an lạc.

Khi thuyết pháp này, chúng Tỳ kheo, thích Phạm thiên, trời, người, A tu la.v.v... nghe lời Phật thuyết đều hoan hỷ phụng hành.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 27160)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21761)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22225)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23600)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20412)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20047)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21945)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24736)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18982)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24730)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30968)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23976)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27757)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26503)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21297)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23208)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38114)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18799)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18429)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19947)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19029)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23138)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23865)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22783)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22902)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29559)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20633)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18707)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15842)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18841)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19643)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20145)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19947)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18110)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22916)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34158)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16408)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16915)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39221)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26045)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20091)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18841)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24048)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29104)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22898)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30937)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 20997)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26845)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20663)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26244)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23317)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19815)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24664)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30018)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20212)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20399)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15136)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15822)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23864)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
(Xem: 19838)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant