Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Dhammika

25 Tháng Hai 201511:40(Xem: 11405)
Kinh Dhammika
Kinh Tập (Sutta Nipata)
Kinh DHAMMIKA

HT Thích Minh Châu dịch

Kinh DHAMMIKA
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.

"Như vầy tôi nghe."

"Một thời Thế Tôn trú tại Sàvatthi, ở Jetavana, khu vườn ông Anathapindika. Rồi nam cư sĩ Dhammika đi đến Thế Tôn với 500 nam cư sĩ, sau khi đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, nam cư sĩ Dhammika nói lên những bài kệ với Thế Tôn:"

Dhammika:

376.
"Kính thưa Gotama,
Bậc trí tuệ rộng lớn,
Con xin kính hỏi Ngài,
Vấn đề (đặc biệt) này:
Với vị đệ tử Ngài,
Làm thế nào là thiện?
Nếu là vị xuất gia,
Bỏ nhà, sống không nhà,
Hay là vị có nhà,
Sống đời nam cư sĩ?"

377.
"Ngài rõ biết đường đi,
Cùng mục đích tối hậu,
Của Thế Tôn đời này,
thế giới chư Thiên,
Không ai so sánh Ngài,
Bậc thấy nghĩa thù diệu,
Chính Ngài được tôn xưng,
đức Phật thù thắng."

378.
"Ngài biết tất cả trí,
Ngài trình bày chánh pháp,
Vì lòng thương, từ mẫu,
Đối với mọi chúng sanh.
Ngài mở rộng bức màn,
Bậc có mắt mọi nơi.
Không cấu uế (thanh tịnh)
Ngài chói toàn thế giới."

379.
"Vị vua loài Naga
Tên Ê-ra-va-nô,
Đã đến gần bên Ngài,
Được nghe: Ngài chiến thắng.
Vị ấy tìm đến Ngài.
Để nghe lời khuyên nhủ,
Sau khi nghe, thích thú
Nói lên lời: "Lành thay!"

380.
"Vua Vessavana,
Kuvera đến Ngài,
Tìm hiểu hỏi han Ngài
Về vấn đề diệu pháp,
Được hỏi, ôi bậc trí,
Hãy nói lên cho vua!
Sau khi nghe, vị ấy,
Cũng thích thú, ưa thích!"

381.
"Các bậc ngoại đạo này,
Ưa luận tranh khẩu chiến,
Các tà mạng ngoại đạo,
Hay các Ni Kiền Tử.
Tất cả không vượt qua,
Hơn thắng trí của Ngài,
Như người đang đứng lại.
Không thắng kẻ đi mau."

382.
"Các Bà la môn này,
Ưa luận tranh khẩu chiến,
Có những bậc Phạm chí,
Đã đến tuổi trưởng thượng,
Tất cả đều trói buộc,
Bởi tư tưởng của Ngài,
Kể cả những hạng người,
Tự phụ nói khoe khoang!"

383.
"Pháp này là tế nhị,
Đem lại nguồn an lạc,
Đã được Thế Tôn Ngài,
Khéo nói, khéo thuyết giảng,
Tất cả mọi hạng người,
Đều thích thú ưa nghe,
Được hỏi, hãy nói lên,
Ôi đức Phật tối thượng."

384.
"Các vị tỷ kheo này,
Đang ngồi đây tất cả,
Kể cả nam cư sĩ,
Tất cả đều chờ nghe!
Hãy để chúng nghe pháp,
Bậc vô uế giác ngộ!
Như chư Thiên nghe lời,
Vasava khéo nói!"

Thế Tôn:

385.
"Tỷ kheo, hãy nghe Ta!
Ta khiến các ngươi nghe!
Pháp đoạn trừ điều ác!
Tất cả hãy thọ trì.
Với ai thấy ý nghĩa,
Nghĩ ngợi có suy tư,
Hãy sống theo chánh hạnh,
Thích hợp với xuất gia."

386.
"Tỷ kheo chớ ra ngoài,
Trong thời gian phi thời,
Hãy đi làng khất thực,
Đúng thời, thì hãy đi!
Ai đi đứng phi thời,
Bị bẫy sập trói buộc,
Do vậy các đức Phật,
Không có đi phi thời."

387.
"Các sắc và các tiếng,
Các vị hương và xúc,
Chính những loại pháp ấy,
Làm mê hoặc chúng sanh,
Hãy nhiếp phục, lòng dục,
Đối với các pháp ấy,
Hãy vào cho đúng thời,
Để dùng buổi ăn sáng!"

388.
"Tỷ kheo được đúng thời,
Các đồ ăn khất thực,
Hãy đi về một mình,
Ngồi tại chỗ an tịnh,
Suy tư hướng nội tâm,
Ý không chạy ra ngoài,
Làm cho thoát ra khỏi,
Mọi chấp thủ tự ngã."

389.
"Nếu vị ấy có nói,
Với một vị đệ tử,
Hãy nói với một vị,
Một tỷ kheo nào khác,
Hãy nói cho vị ấy,
Sự thù diệu chánh pháp,
Không có nói hai lưỡi,
Không bài xích một ai."

390.
"Nhưng có những hạng người,
Dùng khẩu chiến bằng lời,
Những hạng người tuệ nhỏ
Chúng ta không tán thán.
Triền phược trói buộc chúng,
Từ chỗ này chỗ kia,
Ở đây chúng dẫn tâm
Đưa tâm đi quá xa."

391.
"Đồ khất thực, tinh xá,
Cùng sàng tọa trú xứ,
Nước để trừ bụi nhớp,
Y áo Tăng già lê,
Sau khi nghe chánh pháp,
Do Thiện thệ thuyết giảng,
Bậc đệ tử thắng tuệ,
Quán sát, hãy dùng chúng."

392.
"Do vậy đồ khất thực,
Sàng tọa và trú xứ,
Nước để trừ bụi nhớp,
Y áo Tăng già lê
Đối với những pháp ấy,
Đừng để cho dính nhiễm,.
Tỷ kheo như giọt nước,
Không dính trên lá sen."

393.
"Trách nhiệm của gia chủ,
Ta cũng nói các ngươi,
Làm theo đúng như vậy,
Đệ tửtốt lành.
Pháp tỷ kheo toàn diện,
Khó thành tựu đầy đủ,
Vì là người gia chủ,
Phải làm nhiều việc đời."

394.
"Chớ giết loài hữu tình,
Chớ bảo người giết hại,
Hay chấp nhận kẻ khác
Giết hại các người khác,
Đối với mọi sanh loại,
Từ bỏ các hình phạt,
Đối với kẻ mạnh bạo,
Như đối kẻ run sợ."

395.
"Rồi hãy quyết từ bỏ,
Lấy của không được cho,
Đệ tử khéo sáng suốt,
Vật gì, vật của ai,
Chớ khiến người khác lấy,
Chớ chấp nhận lấy trộm,
Hãy từ bỏ chấm dứt,
Mọi của cải không cho."

396.
"Hãy từ bỏ tránh xa
Đời sống phi Phạm hạnh,
Như bậc trí tránh né,
Lửa cháy hố than hừng,
Nếu tự mình bất lực,
Không thể sống Phạm hạnh,
Thời chớ có xâm phạm,
Vợ của các người khác."

397.
"Khi đi đến hội chúng.
Hay đi đến đoàn chúng,
Hay một mình một người,
Chớ nói lời nói láo.
Chớ khiến người nói láo,
Chớ chấp nhận nói láo,
Tất cả điều không thật,
Hãy tránh xa từ bỏ."

398.
"Chớ sống theo nếp sống,
Uống rượu và say rượu,
Với vị là cư sĩ,
Đã chấp nhận pháp này,
Chớ khiến người uống rượu,
Chớ chấp thuận uống rượu,
Sau khi biết uống rượu,
Cuối đường là điên cuồng."

399.
"Chỉ kẻ ngu say rượu,
Mới làm các điều ác,
Và khiến các người khác.
Sống buông lung phóng dật,
Hãy từ bỏ tránh xa,
Xứ phi công đức này,
Khiến điên cuồng si mê,
Làm kẻ ngu thỏa thích."

400.
"Chớ có giết hữu tình,
Chớ lấy của không cho,
Chớ nói láo không thật,
Chớ uống rượu say mê,
Từ bỏ phi Phạm hạnh,
Không hành trì dâm dục.
Không có ăn ban đêm,
Không ăn lúc phi thời."

401.
"Chớ mang các vòng hoa,
Chớ dùng các nước thơm,
Hãy nằm trên mặt đất,
Trên thảm chiếu trải dài,
Tám hạnh này được gọi,
Là hạnh ngày trai giới,
Do đức Phật giảng dạy,
Để chấm dứt khổ đau."

402.
"Từ nay ngày trai giới,
Chia nửa tháng hai phần,
Ngày mười bốn, mười lăm,
Hay ngày tám mỗi tháng,
Với tâm ý hoan hỷ,
Thực hành thần thông pháp
Gồm có đủ tám phần,
Khéo đầy đủ vẹn toàn."

403.
"Do vậy, vào buổi sáng,
Thực hàng ngày trai giới,
Bậc có trí sáng suốt,
Với tâm tư tín thành,
Với tâm ý tùy hỷ,
Cúng dường tỷ kheo Tăng,
Với món ăn đồ uống,
Hợp với khả năng mình."

404.
"Hãy nuôi dưỡng mẹ cha,
Hợp pháp và đúng pháp,
Và cũng đúng với pháp,
Hãy làm nghề buôn bán,
Người gia chủ như vậy,
Sở hành không phóng dật,
Được sanh làm Thiên nhân,
Tên là: "Tự chói sáng"


Chân thành cám ơn anh Nguyễn Quang Trung đã có thiện tâm giúp đánh máy bài kinh nầy (07/97).


English version (only verses 376-378, 383-404 ):

Sutta Nipata II.14

Dhammika Sutta

Translated from the Pali by John D. Ireland

For free distribution only,
by arrangement with the Buddhist Publication Society

From The Discourse Collection: Selected Texts from the Sutta Nipata (WH 82), translated by John D. Ireland (Kandy: Buddhist Publication Society, 1983).


Thus have I heard. At one time the Lord was staying near Savatthi in the Jeta Grove at Anathapindaka's monastery. Now the lay-follower Dhammika with five hundred other lay-followers approached the Lord. Having drawn near and having saluted the Lord respectfully he sat down at one side. Sitting there the lay-follower Dhammika addressed the Lord as follows:

"I ask Gotama [1] of extensive wisdom this: How acting is a disciple virtuous -- both the disciple who has gone from home to the homeless state and the followers who are householders? For you clearly understand the behavior [2] of the world with the devas and the final release. There is none equal to you who are skilled in seeing what is profound. You are an illustrious Awakened One (Buddha). Having investigated all knowledge and being compassionate towards beings you have announced the Dhamma, a revealer of what is hidden, of comprehensive vision, stainless, you illuminate all the worlds.

"This Dhamma, subtle and pleasing and taught so clearly by you, Lord, it is this we all wish to hear. Having been questioned, foremost Awakened One, tell us (the answer). All these bhikkhus and also the layfollowers who have come to hear the truth, let them listen to the Dhamma awakened to (anubuddham) by the Stainless One as the devas listen to the well-spoken words of Vasava." [3]

(The Lord:) "Listen to me, bhikkhus, I will teach you the ascetic practice (dhamma dhutam), the mode of living suitable for those who have gone forth. Do you all bear it in mind. One who is intent upon what is good and who is thoughtful should practice it.

"A bhikkhu should not wander about at the wrong time but should walk the village for food at the right time, as one who goes about at the wrong time is (liable to be) obsessed by attachment, therefore Awakened Ones do not walk (for alms) at the wrong time. [4] Sights, sounds, tastes, scents and bodily contacts overwhelm (the minds of) beings. Being rid of desire for these sense objects, at the right time, one may enter (the village) for the morning meal. Having duly obtained food, going back alone and sitting down in a secluded place, being inwardly thoughtful and not letting the mind go out to external objects, a bhikkhu should develop self-control.

"If he should speak with a lay-disciple, with someone else or with another bhikkhu, he should speak on the subtle Dhamma, not slandering others nor gossiping. Some set themselves up as disputants in opposition to others; those of little wisdom we do not praise; attachments bind them and they are carried away by their emotions. [5]

"Having heard the Dhamma taught by the Sugata [6] and considered it, a disciple of Him of excellent wisdom should wisely make use of food, a dwelling, a bed, a seat and water for washing the robe. But a bhikkhu should not be soiled by (clinging to) these things, as a lotus is not wetted by a drop of water.

"Now I will tell you the layman's duty. Following it a lay-disciple would be virtuous; for it is not possible for one occupied with the household life to realize the complete bhikkhu practice (dhamma).

"He should not kill a living being, nor cause it to be killed, nor should he incite another to kill. Do not injure any being, either strong or weak, in the world.

"A disciple should avoid taking anything from anywhere knowing it (to belong to another). He should not steal nor incite another to steal. He should completely avoid theft.

"A wise man should avoid unchastity as (he would avoid falling into) a pit of glowing charcoal. If unable to lead a celibate life, he should not go to another's wife.

"Having entered a royal court or a company of people he should not speak lies. He should not speak lies (himself) nor incite others to do so. He should completely avoid falsehood.

"A layman who has chosen to practice this Dhamma should not indulge in the drinking of intoxicants. He should not drink them nor encourage others to do so; realizing that it leads to madness. Through intoxication foolish people perform evil deeds and cause other heedless people to do likewise. He should avoid intoxication, this occasion for demerit, which stupefies the mind, and is the pleasure of foolish people.

Do not kill a living being;
do not take what is not given;
do not speak a lie;
do not drink intoxicants;
abstain from sexual intercourse;
do not eat food at night, at the wrong time;
do not wear flower-garlands nor use perfumes;
use the ground as a bed or sleep on a mat.

"This is called the eight-factored observance made known by the known by the Awakened One who has reached the end of suffering.

"With a gladdened mind observe the observance day (uposatha), complete with its eight factors, on the fourteenth, fifteenth and eighth days of the (lunar) fortnight and also the special holiday of the half month. In the morning, with a pure heart and a joyful mind, a wise man, after observing the uposatha, should distribute suitable food and drink to the community of bhikkhus. He should support his mother and father as his duty and engage in lawful trading. A layman who carries this out diligently goes to the devas called "Self-radiant." [7]

-- vv. 376-378, 383-404


Notes

1. Gotama is the Buddha's clan or family name. [Go back]

2. According to the commentary, the Pali term "gati" translated here as "behavior" means either "trend of character" or "the destination of beings after death. [Go back]

3. "Vasava" is one of the several names for Sakka, ruler of the devas or gods. This is a poetical way of saying they should listen very attentively. [Go back]

4. The right time for going into the village to collect almsfood is in the forenoon. If a bhikkhu went about indiscriminately, "at the wrong time," he might see things or have experiences that would endanger his life of purity and cause him to revert to the lay life. [Go back]

5. Literally, "they send the mind far." [Go back]

6. Sugata, literally "well-gone," sometimes translated as the "Happy One," is an epithet of the Buddha. [Go back]

7. A class of heavenly beings (deva). A layman who practices this will, after death, be reborn as one of them. [Go back]


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 23972)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41222)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19705)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 24004)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21749)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23315)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27510)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26578)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29322)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33207)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20209)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25788)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20921)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31331)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38584)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21450)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44269)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29836)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42226)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22145)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45776)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32126)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23964)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24397)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29285)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33929)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27689)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32146)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21070)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28858)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21593)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28080)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22083)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21445)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19508)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19477)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19841)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19262)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29201)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20627)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28306)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23652)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33200)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31849)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21382)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39636)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21565)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19385)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26411)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24837)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21760)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22398)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29143)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22562)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20473)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23532)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21243)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35334)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24548)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
(Xem: 31348)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant