Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Phật Vì Tỳ Kheo Trẻ Tuổi Nói Việc Làm Chân Chánh

09 Tháng Ba 201513:45(Xem: 11484)
Kinh Phật Vì Tỳ Kheo Trẻ Tuổi Nói Việc Làm Chân Chánh
Phật Vi Niên Thiếu Tỳ Kheo Thuyết Chánh Sự Kinh
(Kinh Phật Vì Tỳ Kheo Trẻ Tuổi Nói Việc Làm Chân Chánh)

-Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0502
-Dịch Phạn sang Hán: Tây Tấn, Sa môn Pháp Cự dịch
-Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ kheo Thích Hạnh Tuệ - Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
-Hiệu đính: HT Thích Như Điển – Phương trượng Chùa Viên Giác, Đức Quốc

Kinh Phật Vì Tỳ Kheo Trẻ Tuổi Nói Việc Làm Chân Chánh
Tôi nghe như vầy.

Một thuở nọ, Đức Phật đang an cư mùa hạ tại vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ. Lúc bấy giờ trong chúng có nhiều vị trưởng lão Thanh văn ở hai bên Đức Thế Tôn trong hang động, dưới gốc cây để an cư.

Lúc ấy có chúng gồm nhiều vị Tỳ kheo trẻ tuổi đi đến chỗ Đức Phật, cúi đầu đảnh lễ chân Phật rồi lui ngồi một phía. Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ[1]. Khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ rồi, an trụ trong trầm lặng. Các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nghe Đức Phật thuyết pháp rồi, tuỳ hỷ vui mừng, từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễlui về.

Các vị Tỳ kheo trẻ tuổi đi đến chỗ các vị trưởng lão Tỳ kheo[2], đảnh lễ dưới chân các vị trưởng lão rồi ngồi vào một phía. Bấy giờ các vị trưởng lão Tỳ kheo khởi niệm như vầy: Chúng ta nên tiếp nhận các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nầy, hoặc một người nhận một người, hoặc một người nhận hai, ba hay nhiều người. Nghĩ như vậy rồi liền bèn tiếp nhận, hoặc một người nhận một người, hoặc nhận hai, ba hay nhiều người, hoặc có vị trưởng lão nhận đến sáu mươi người.

Bấy giờ là ngày rằm, Đức Thế Tôn trong lúc bố tát, ở trước đại chúng trải toà mà ngồi. Lúc ấy, Đức Thế Tôn quán sát các vị Tỳ kheo rồi bảo các vị Tỳ kheo rằng: “Lành thay! Lành thay! Ta nay vui mừng cho các vị Tỳ kheo đã thực hành các việc chân chánh. Cho nên, Tỳ kheo! Phải siêng năng, tinh tấn.”

Ở nước Xá Vệ lúc nầy, tháng ca-đề[3] đã mãn, các Tỳ kheo sống tại các thôn xóm[4] nghe rằng: Đức Thế Tôn an cư ở nước Xá Vệ, tháng ca-đề đã mãn rồi, may y đã xong, đắp y ôm bát đang du hành trong nhân gian, nước Xá Vệ. (Các vị Tỳ kheo ấy) dần đi đến nước Xá Vệ, cất y bát, rửa chân xong, đến chỗ Đức Thế Tôn, cúi đầu đảnh lễ dưới chân xong, rồi lui ngồi vào một phía.

Bấy giờ Đức Thế Tôn vì các vị Tỳ kheo trong nhân gian thuyết pháp các loại, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, làm cho hoan hỷ rồi; Ngài yên lặng.

Lúc ấy, các vị Tỳ kheo trong nhân gian đã nghe Đức Phật thuyết pháp, vui mừng, tuỳ hỷ, từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ mà đi; đi đến chỗ các vị Tỳ kheo trưởng lão, cúi đầu đảnh lễ dưới chân, rồi lui ngồi vào một phía. Bấy giờ, các vị trưởng lão nghĩ như vầy: Chúng ta nên nhận các vị Tỳ kheo trong nhân gian nầy, hoặc một người nhận một người, hoặc hai, ba, cho đến nhiều người, tức liền tiếp nhận lấy.” Hoặc một người nhận một người, hoặc hai, ba, cho đến có vị nhận sáu mươi người. Các vị Tỳ kheo trưởng lão ấy nhận các vị Tỳ kheo trong nhân gian chỉ dạy giới pháp, làm người mẫu mực, khéo hiểu biết thứ lớp, trước sau.

Bấy giờ là ngày rằm, Đức Thế Tôn trong lúc bố tát, ở trước đại chúng trải tòa mà ngồi, quán sát các Tỳ kheo, bảo các Tỳ kheo: “Lành thay! Lành thay! Các Tỳ kheo, ta vui mừng khi các ông đã làm các việc chân chánh. Các Tỳ kheo! Chư Phật trong quá khứ cũng có chúng Tỳ kheo làm các việc chân chánh như chúng đây ngày nay. Chư Phật ở vị lai có các đại chúng cũng sẽ như hôm nay đang có, làm các việc chân chánh giống như đại chúng ngày hôm nay. Vì sao vậy? Vì hôm nay, trong chúng đây các vị Tỳ kheo trưởng lão có vị đắc Sơ thiền, đệ nhị thiền, đệ tam thiền, đệ tứ thiền, từ bi hỷ xả, không nhập xứ, thức nhập xứ, vô sở hữu nhập xứ, phi tưởng phi phi tưởng xứ, an trụ được đầy đủ. Có vị Tỳ kheo đã hết sạch ba kết[5] đắc Tu đà hoàn không đọa vào cõi ác, pháp quyết định hướng đến tam bồ đề[6], còn sanh vào trong cõi trời người bảy lần[7], rốt ráo cõi khổ. Có Tỳ kheo ba kết đã sạch hết, tham sân si giảm bớt, đắc Tư đà hàm. Có Tỳ kheo năm hạ phần kết[8] đã hết sạch, đắc A na hàm, sanh Bát niết bàn[9], không còn trở lại cõi đời nầy nữa. Có Tỳ kheo đắc cảnh giới vô lượng thần thông: thiên nhĩ, tha tâm trí, túc mạng trí, sanh tử trí, lậu tận trí. Có Tỳ kheo tu quán bất tịnh để đoạn trừ tham dục, tu tâm từ bi để đoạn trừ sân hận, tu quán vô thường để đoạn trừ ngã mạn, tu An-na-bàn-na niệm[10] để đoạn trừ các giác[11] tưởng. Thế nào là Tỳ kheo tu An-na-bàn-na niệm để đoạn trừ giác tưởng? Đó là vị Tỳ kheo nương nơi làng xóm mà ở, cho đến quán diệt nơi hơi thở ra, như thật rõ biết quán diệt nơi hơi thở ra. Đó gọi là tu An-na-bàn-na niệm để đoạn trừ các giác tưởng.”

Đức Phật nói kinh nầy xong, các Tỳ kheo đã nghe Đức Phật nói rồi hoan hỷ phụng hành.

Kinh Phật Vì Tỳ Kheo Trẻ Tuổi Nói Việc Làm Chân Chánh

Dịch xong ngày 12/01/2014


No. 502

佛為年少比丘說正事經

西晉沙門法炬譯

如是我聞:

一時佛住舍衛國祇樹給孤獨園夏安居。爾時眾多上座聲聞,於世尊左右樹下窟中安居。時有眾多年少比丘詣佛所,稽首佛足,退坐一面,佛為諸年少比丘,種種說法,示教照喜。示教照喜已,默然住。諸年少比丘聞佛所說,歡喜隨喜,從座起,作禮而去。

諸年少比丘往詣上座比丘所,禮諸上座足已,於一面坐。時諸上座比丘作是念:「我等當攝受此諸年少比丘,或一人受一人,或一人受二、三多人。」作是念已,即便攝受,或一人受一人,或受二、三多人,或有上座乃至受六十人。

爾時世尊十五日布薩時,於大眾前敷座而坐。爾時世尊觀察諸比丘已,告比丘:「善哉,善哉!我今喜諸比丘行諸正事,是故比丘!當勤精進。」

於此舍衛國滿迦提月諸處人間比丘,聞世尊於舍衛國安居滿迦提月已,作衣竟,持衣鉢,於舍衛國人間遊行。漸至舍衛國,舉衣鉢,洗足已,詣世尊所,稽首禮足已,退坐一面。爾時世尊為人間比丘種種說法。示教照喜已,默然。

爾時人間比丘聞佛說法,歡喜隨喜,從座起,作禮而去。往詣上座比丘所,稽首禮足,退坐一面。時諸上座,作是念:「我等當受此人間比丘,或一人受一人,或二、三乃至多人,即便受之。」或一人受一人,或二、三乃至有受六十人者。彼上座比丘受諸人間比丘,教戒教授,善知先後次第。

爾時世尊月十五日布薩時,於大眾前敷座而坐。觀察諸比丘,告諸比丘:「善哉,善哉!諸比丘,我欣汝等所行正事,樂法等所行正事。諸比丘!過去諸佛亦有比丘眾,所行正事,如今此眾;未來諸佛所有諸眾,亦當如是,所行正事,如今此眾。所以者何?今此眾中,諸長老比丘,有得初禪、第二禪、第三禪、第四禪、慈悲喜捨、空入處、識入處、無所有入處、非想非非想處,具足住;有比丘三結盡得須陀洹,不墮惡趣,法決定向三菩提,七有天人往生,究竟苦邊;有比丘三結盡,貪恚癡薄,得斯陀含;有比丘五下分結盡,得阿那含,生般涅槃,不復還生此世;有比丘得無量神通境界,天耳、他心智、宿命智、生死智、漏盡智;有比丘修不淨觀斷貪欲,修慈心斷瞋恚,修無常想斷我慢,修安那般那念斷覺想。云何比丘修安那般那念斷覺想?是比丘依止聚落,乃至觀滅出息,如觀滅出息覺,是名修安那般那念斷覺想。」

佛說此經已,諸比丘聞佛所說,歡喜奉行。

佛為年少比丘說正事經

[1] Hán dịch: 示教照喜 thị, giáo, chiếu, hỷ: khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ. Sđd.

[2] Hán dịch:上座比丘 Thượng tọa Tỳ kheo: chỉ cho các vị Tỳ kheo trưởng lão.

[3] 迦提月“ca-đề nguyệt”, kaṭṭika (P), thường chỉ tháng sau ngày giải chế an cư. Sđd.

[4]人間毗丘 “nhân gian Tỳ kheo”, gāmantavihārin (P), Tỳ kheo sống tại các thôn xóm/ Tỳ kheo ở giữa người đời. Sđd.

[5]三結 “Tam kết” (kiết) gọi đủ là Tam kết (kiết) sử Samyojanani (p): Thân kiến kiết sử: Sakkaya-ditthi (p), Nghi kiết sử: Vici-kiccha (p), Giới cấm thủ: Silabhata-paramaso (p)

[6]三菩提“Tam bồ đề”, nói cho đủ là “A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề” tức là đắc Niết bàn. Đắc Niết bàn tức là Như Lai pháp thân.

[7]七有 “Thất hữu” hay “Thất chủng sanh”, Sattakkhattuparama (P): là bậc Dự lưu mà phải sanh lại cõi dục (Trời – Người) cho đến bảy lần, mới đắc A-la-hán.

[8]五下分結 “Ngũ hạ phần kết”, Pañca āvarabhāgiya-saṃyojanāni (P): Năm loại phiền não trói buộc chúng sanh hữu tìnhDục giới. Sở dĩ gọi là hạ phần là bởi vì nó ở hạ giới, tức Dục giới, khác với thượng giới, tức là Sắc giớiVô sắc giới. Năm loại là: 1. Dục kết: những phiền não tham dục; 2. Sân kết: những phiền não giận hờn; 3. Thân kiến kết: phiền não ngã kiến, chấp ngã; 4. Giới thủ kết: phiền não giữ gìn những giới luật phi lý, vô đạo; 5. Nghi kết: phiền não nghi ngờ chân lý.

[9]般涅槃 “Bát niết bàn”, parinirvāṇa (S), parinibbāna (P) là tịch diệt hoàn toàn, đồng nghĩa với “Niết bàn” nirvāṇa (S).

[10]安那般那念 “An-na-ban-na niệm”, Anāpānassati (P): niệm hơi thở ra vào.

[11] Giác, đây chỉ cho giác tưởng phân biệt, hay vọng tưởng phân biệt, saṅkappa (P).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 23952)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41210)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19686)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 23973)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21741)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23291)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27497)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26551)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29307)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33177)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20179)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25760)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20902)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31301)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38552)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21424)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44240)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29813)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42187)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22130)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45736)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32103)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23947)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24377)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29244)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33908)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27676)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32118)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21058)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28840)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21562)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28055)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22058)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21421)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19489)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19457)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19827)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19234)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29169)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20607)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28273)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23646)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33163)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31831)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21363)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39610)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21543)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19365)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26369)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24810)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21750)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22371)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29125)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22550)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20465)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23509)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21229)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35306)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24539)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
(Xem: 31332)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant