Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Phật Vì Tỳ Kheo Trẻ Tuổi Nói Việc Làm Chân Chánh

09 Tháng Ba 201513:45(Xem: 11482)
Kinh Phật Vì Tỳ Kheo Trẻ Tuổi Nói Việc Làm Chân Chánh
Phật Vi Niên Thiếu Tỳ Kheo Thuyết Chánh Sự Kinh
(Kinh Phật Vì Tỳ Kheo Trẻ Tuổi Nói Việc Làm Chân Chánh)

-Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0502
-Dịch Phạn sang Hán: Tây Tấn, Sa môn Pháp Cự dịch
-Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ kheo Thích Hạnh Tuệ - Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
-Hiệu đính: HT Thích Như Điển – Phương trượng Chùa Viên Giác, Đức Quốc

Kinh Phật Vì Tỳ Kheo Trẻ Tuổi Nói Việc Làm Chân Chánh
Tôi nghe như vầy.

Một thuở nọ, Đức Phật đang an cư mùa hạ tại vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ. Lúc bấy giờ trong chúng có nhiều vị trưởng lão Thanh văn ở hai bên Đức Thế Tôn trong hang động, dưới gốc cây để an cư.

Lúc ấy có chúng gồm nhiều vị Tỳ kheo trẻ tuổi đi đến chỗ Đức Phật, cúi đầu đảnh lễ chân Phật rồi lui ngồi một phía. Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ[1]. Khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ rồi, an trụ trong trầm lặng. Các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nghe Đức Phật thuyết pháp rồi, tuỳ hỷ vui mừng, từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễlui về.

Các vị Tỳ kheo trẻ tuổi đi đến chỗ các vị trưởng lão Tỳ kheo[2], đảnh lễ dưới chân các vị trưởng lão rồi ngồi vào một phía. Bấy giờ các vị trưởng lão Tỳ kheo khởi niệm như vầy: Chúng ta nên tiếp nhận các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nầy, hoặc một người nhận một người, hoặc một người nhận hai, ba hay nhiều người. Nghĩ như vậy rồi liền bèn tiếp nhận, hoặc một người nhận một người, hoặc nhận hai, ba hay nhiều người, hoặc có vị trưởng lão nhận đến sáu mươi người.

Bấy giờ là ngày rằm, Đức Thế Tôn trong lúc bố tát, ở trước đại chúng trải toà mà ngồi. Lúc ấy, Đức Thế Tôn quán sát các vị Tỳ kheo rồi bảo các vị Tỳ kheo rằng: “Lành thay! Lành thay! Ta nay vui mừng cho các vị Tỳ kheo đã thực hành các việc chân chánh. Cho nên, Tỳ kheo! Phải siêng năng, tinh tấn.”

Ở nước Xá Vệ lúc nầy, tháng ca-đề[3] đã mãn, các Tỳ kheo sống tại các thôn xóm[4] nghe rằng: Đức Thế Tôn an cư ở nước Xá Vệ, tháng ca-đề đã mãn rồi, may y đã xong, đắp y ôm bát đang du hành trong nhân gian, nước Xá Vệ. (Các vị Tỳ kheo ấy) dần đi đến nước Xá Vệ, cất y bát, rửa chân xong, đến chỗ Đức Thế Tôn, cúi đầu đảnh lễ dưới chân xong, rồi lui ngồi vào một phía.

Bấy giờ Đức Thế Tôn vì các vị Tỳ kheo trong nhân gian thuyết pháp các loại, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, làm cho hoan hỷ rồi; Ngài yên lặng.

Lúc ấy, các vị Tỳ kheo trong nhân gian đã nghe Đức Phật thuyết pháp, vui mừng, tuỳ hỷ, từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ mà đi; đi đến chỗ các vị Tỳ kheo trưởng lão, cúi đầu đảnh lễ dưới chân, rồi lui ngồi vào một phía. Bấy giờ, các vị trưởng lão nghĩ như vầy: Chúng ta nên nhận các vị Tỳ kheo trong nhân gian nầy, hoặc một người nhận một người, hoặc hai, ba, cho đến nhiều người, tức liền tiếp nhận lấy.” Hoặc một người nhận một người, hoặc hai, ba, cho đến có vị nhận sáu mươi người. Các vị Tỳ kheo trưởng lão ấy nhận các vị Tỳ kheo trong nhân gian chỉ dạy giới pháp, làm người mẫu mực, khéo hiểu biết thứ lớp, trước sau.

Bấy giờ là ngày rằm, Đức Thế Tôn trong lúc bố tát, ở trước đại chúng trải tòa mà ngồi, quán sát các Tỳ kheo, bảo các Tỳ kheo: “Lành thay! Lành thay! Các Tỳ kheo, ta vui mừng khi các ông đã làm các việc chân chánh. Các Tỳ kheo! Chư Phật trong quá khứ cũng có chúng Tỳ kheo làm các việc chân chánh như chúng đây ngày nay. Chư Phật ở vị lai có các đại chúng cũng sẽ như hôm nay đang có, làm các việc chân chánh giống như đại chúng ngày hôm nay. Vì sao vậy? Vì hôm nay, trong chúng đây các vị Tỳ kheo trưởng lão có vị đắc Sơ thiền, đệ nhị thiền, đệ tam thiền, đệ tứ thiền, từ bi hỷ xả, không nhập xứ, thức nhập xứ, vô sở hữu nhập xứ, phi tưởng phi phi tưởng xứ, an trụ được đầy đủ. Có vị Tỳ kheo đã hết sạch ba kết[5] đắc Tu đà hoàn không đọa vào cõi ác, pháp quyết định hướng đến tam bồ đề[6], còn sanh vào trong cõi trời người bảy lần[7], rốt ráo cõi khổ. Có Tỳ kheo ba kết đã sạch hết, tham sân si giảm bớt, đắc Tư đà hàm. Có Tỳ kheo năm hạ phần kết[8] đã hết sạch, đắc A na hàm, sanh Bát niết bàn[9], không còn trở lại cõi đời nầy nữa. Có Tỳ kheo đắc cảnh giới vô lượng thần thông: thiên nhĩ, tha tâm trí, túc mạng trí, sanh tử trí, lậu tận trí. Có Tỳ kheo tu quán bất tịnh để đoạn trừ tham dục, tu tâm từ bi để đoạn trừ sân hận, tu quán vô thường để đoạn trừ ngã mạn, tu An-na-bàn-na niệm[10] để đoạn trừ các giác[11] tưởng. Thế nào là Tỳ kheo tu An-na-bàn-na niệm để đoạn trừ giác tưởng? Đó là vị Tỳ kheo nương nơi làng xóm mà ở, cho đến quán diệt nơi hơi thở ra, như thật rõ biết quán diệt nơi hơi thở ra. Đó gọi là tu An-na-bàn-na niệm để đoạn trừ các giác tưởng.”

Đức Phật nói kinh nầy xong, các Tỳ kheo đã nghe Đức Phật nói rồi hoan hỷ phụng hành.

Kinh Phật Vì Tỳ Kheo Trẻ Tuổi Nói Việc Làm Chân Chánh

Dịch xong ngày 12/01/2014


No. 502

佛為年少比丘說正事經

西晉沙門法炬譯

如是我聞:

一時佛住舍衛國祇樹給孤獨園夏安居。爾時眾多上座聲聞,於世尊左右樹下窟中安居。時有眾多年少比丘詣佛所,稽首佛足,退坐一面,佛為諸年少比丘,種種說法,示教照喜。示教照喜已,默然住。諸年少比丘聞佛所說,歡喜隨喜,從座起,作禮而去。

諸年少比丘往詣上座比丘所,禮諸上座足已,於一面坐。時諸上座比丘作是念:「我等當攝受此諸年少比丘,或一人受一人,或一人受二、三多人。」作是念已,即便攝受,或一人受一人,或受二、三多人,或有上座乃至受六十人。

爾時世尊十五日布薩時,於大眾前敷座而坐。爾時世尊觀察諸比丘已,告比丘:「善哉,善哉!我今喜諸比丘行諸正事,是故比丘!當勤精進。」

於此舍衛國滿迦提月諸處人間比丘,聞世尊於舍衛國安居滿迦提月已,作衣竟,持衣鉢,於舍衛國人間遊行。漸至舍衛國,舉衣鉢,洗足已,詣世尊所,稽首禮足已,退坐一面。爾時世尊為人間比丘種種說法。示教照喜已,默然。

爾時人間比丘聞佛說法,歡喜隨喜,從座起,作禮而去。往詣上座比丘所,稽首禮足,退坐一面。時諸上座,作是念:「我等當受此人間比丘,或一人受一人,或二、三乃至多人,即便受之。」或一人受一人,或二、三乃至有受六十人者。彼上座比丘受諸人間比丘,教戒教授,善知先後次第。

爾時世尊月十五日布薩時,於大眾前敷座而坐。觀察諸比丘,告諸比丘:「善哉,善哉!諸比丘,我欣汝等所行正事,樂法等所行正事。諸比丘!過去諸佛亦有比丘眾,所行正事,如今此眾;未來諸佛所有諸眾,亦當如是,所行正事,如今此眾。所以者何?今此眾中,諸長老比丘,有得初禪、第二禪、第三禪、第四禪、慈悲喜捨、空入處、識入處、無所有入處、非想非非想處,具足住;有比丘三結盡得須陀洹,不墮惡趣,法決定向三菩提,七有天人往生,究竟苦邊;有比丘三結盡,貪恚癡薄,得斯陀含;有比丘五下分結盡,得阿那含,生般涅槃,不復還生此世;有比丘得無量神通境界,天耳、他心智、宿命智、生死智、漏盡智;有比丘修不淨觀斷貪欲,修慈心斷瞋恚,修無常想斷我慢,修安那般那念斷覺想。云何比丘修安那般那念斷覺想?是比丘依止聚落,乃至觀滅出息,如觀滅出息覺,是名修安那般那念斷覺想。」

佛說此經已,諸比丘聞佛所說,歡喜奉行。

佛為年少比丘說正事經

[1] Hán dịch: 示教照喜 thị, giáo, chiếu, hỷ: khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ. Sđd.

[2] Hán dịch:上座比丘 Thượng tọa Tỳ kheo: chỉ cho các vị Tỳ kheo trưởng lão.

[3] 迦提月“ca-đề nguyệt”, kaṭṭika (P), thường chỉ tháng sau ngày giải chế an cư. Sđd.

[4]人間毗丘 “nhân gian Tỳ kheo”, gāmantavihārin (P), Tỳ kheo sống tại các thôn xóm/ Tỳ kheo ở giữa người đời. Sđd.

[5]三結 “Tam kết” (kiết) gọi đủ là Tam kết (kiết) sử Samyojanani (p): Thân kiến kiết sử: Sakkaya-ditthi (p), Nghi kiết sử: Vici-kiccha (p), Giới cấm thủ: Silabhata-paramaso (p)

[6]三菩提“Tam bồ đề”, nói cho đủ là “A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề” tức là đắc Niết bàn. Đắc Niết bàn tức là Như Lai pháp thân.

[7]七有 “Thất hữu” hay “Thất chủng sanh”, Sattakkhattuparama (P): là bậc Dự lưu mà phải sanh lại cõi dục (Trời – Người) cho đến bảy lần, mới đắc A-la-hán.

[8]五下分結 “Ngũ hạ phần kết”, Pañca āvarabhāgiya-saṃyojanāni (P): Năm loại phiền não trói buộc chúng sanh hữu tìnhDục giới. Sở dĩ gọi là hạ phần là bởi vì nó ở hạ giới, tức Dục giới, khác với thượng giới, tức là Sắc giớiVô sắc giới. Năm loại là: 1. Dục kết: những phiền não tham dục; 2. Sân kết: những phiền não giận hờn; 3. Thân kiến kết: phiền não ngã kiến, chấp ngã; 4. Giới thủ kết: phiền não giữ gìn những giới luật phi lý, vô đạo; 5. Nghi kết: phiền não nghi ngờ chân lý.

[9]般涅槃 “Bát niết bàn”, parinirvāṇa (S), parinibbāna (P) là tịch diệt hoàn toàn, đồng nghĩa với “Niết bàn” nirvāṇa (S).

[10]安那般那念 “An-na-ban-na niệm”, Anāpānassati (P): niệm hơi thở ra vào.

[11] Giác, đây chỉ cho giác tưởng phân biệt, hay vọng tưởng phân biệt, saṅkappa (P).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 27171)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21764)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22225)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23602)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20425)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20047)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21945)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24738)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18983)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24736)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30970)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23980)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27760)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26505)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21300)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23212)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38119)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18799)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18430)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19950)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19037)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23143)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23867)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22784)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22905)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29561)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20633)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18707)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15845)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18848)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19646)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20148)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19949)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18111)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22918)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34161)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16410)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16915)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39234)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26053)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20095)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18844)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24050)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29109)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22899)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30941)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 20998)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26849)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20670)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26250)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23318)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19816)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24668)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30023)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20214)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20400)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15143)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15826)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23867)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
(Xem: 19842)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant