Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Trì Giới

02 Tháng Tư 201510:20(Xem: 14926)
Trì Giới
TRÌ GIỚI


Toàn Không



Trì GiớiI). Trì Giới là gì?

Trì là giữ chặt chẽ, Giới là những điều ngăn cấm không được làm, không được phạm, Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp; nhờ có giữ giới tâm mới được ổn định, tại sao? Vì nếu không giữ giới như một người giết người cướp của chẳng hạn, tâm người ấy tất nhiên là phải dao động mạnh nếu không nói là loạn động, nên không thể định tĩnh được, do đó người giữ giới tâm dễ được định tĩnh; tâm được định huệ mới sinh, huệ phát sinh mới dứt trừ được vô minh, và khi hết vô minh sẽ hết sinh tử luân hồi, tức là minh tâm kiến tánh, đốn ngộ Phật tánh vậy.

Giới luật của Phật đặt ra không phải để trừng phạt người không thi hành, mà để giúp cho những người nào thi hành nghiêm chỉnh sẽ hưởng được qủa vị tốt đẹp; những giới luật chỉ có mục đích làm cho các đệ tử Phật được mau chóng đạt qủa Thánh trong khi tu hành.

II )- Có mấy loại giới luật? Có ba loại:

1)- Giới luật cho Phật tử tại gia (Cư sĩ):

Phật tử tại gia gồm cư sĩ nam, cư sĩ nữ, những Phật tử tại gia có những giới: Ngũ giới, Bát quan trai giới, Bồ tát giới cho cả hai loại Phật tử tại giaxuất gia.

1- Ngũ giới: Phật tử tại gia có thể giữ từ một tới năm giới là: 1- Không sát sinh, 2- Không trộm cướp, 3- Không tà dâm, 4- Không nói dối, 5- Không uống rượu. Đã được phân tích kỹ trong bài “Thế nào là một người Phật tử, phần Ngũ giới”.

2- Bát quan trai giới (tám cửa ngăn): Quan là cửa, trai là sau giờ ngọ không được ăn. tám cửa ngăn chặn tám điều tội lỗi là: 1- Không sát sinh, 2- Không trộm cướp, 3- Không dâm dục, (chứ không phải là không tà dâm), 4- Không nói dối, 5- Không uống rượu, 6- Không trang điểm, ca hát hay dự cuộc vui, 7- Không nằm ngồi chỗ êm ấm cao sang (để ngăn ngừa sự qúa sung sướng nảy sinh dục vọng), 8- Ăn chay không qúa giờ ngọ (để ngừa buồn ngủ, bệnh và dễ nhất tâm). Tu tám cửa trai giới chỉ trong vòng 24 giờ tức là một ngày tròn mà thôi, hành giả nên thọ giới tại chùa, khi hiểu rõ chương trình, nghi thức rồi, có thể tự thọ giới tại nhà; nên sắp xếp để thọ bát quan trai giới mỗi tháng một lần, vào ngày mồng tám, mười bốn, rằm, v.v…, nếu hoàn cảnh thuận tiện, thọ nhiều lần càng tốt. Trong khi thọ tám cửa trai giới, thân khẩu ý của hành giả được thanh tịnh, tuy chỉ có 24 giờ nhưng rất qúy báu, hơn cả một đời của người không tu hành gì cả; về vấn đề này được phân tích kỹ trong bài “Tám Quan Trai Giới”.

2)- Giới luật cho Phật tử xuất gia:

Có bốn loại Phật tử xuất gia là: Sa Di, Sa Di Ni, Tỳ Kheo, và Tỳ Kheo Ni.

1- Sa DiSa Di Ni là những người nam và nữ mới xuất gia phải giữ 10 giới gồm: 1- Không sát sinh, 2- Không trộm cướp, 3- Không dâm dục, 4- Không nói dối, 5- Không uống rượu, 6- Không trang điểm, 7- Không ca hát hoặc dự các cuộc vui nhộn, 8- Không nằm ngồi chỗ êm ấm cao sang, 9- Phải ăn chay và không qúa giờ ngọ, 10- Không dùng vàng bạc châu báu.

2- Tỳ Kheo: Là Tăng phải giữ 250 giới, gồm cả những giới cho Sa Di.

3- Tỳ Kheo Ni: Là Ni phải giữ 348 giới, gồm cả những giới cho Sa DiTỳ Kheo.

Ngoài ra còn một loại Phật tử xuất gia nữa, đó là Thức Xoa Ma Na, đó là người chưa đủ tuổi, chưa phải là Sa Di hay Sa Di Ni, giữ 6 giới và tập 296 hạnh giới.

Những giới dành cho Tăng Ni rất nhiều và chi tiết, không thể viết ra ở đây; những giới luật này là những hàng rào cản không cho tu sĩ làm với mục đích giúp cho giới tu sĩ không vướng mắc vào những việc của thế gian để tâm được ổn định thanh tịnh, sẽ đưa người tu đến giải thoát. Như tham gia biểu tình ủng hộ phản đối, bàn chuyện chính trị tranh cãi hơn thua, nuôi con nuôi, buôn bán v.v…; người tu hành chân chính không bao giờ làm các việc ấy, vì khi làm tâm trí sẽ bận bịu với các việc ấy không thể yên ổn tu hành được.

3)- Bồ Tát giới: Bồ Tát giới chung cho cả Phật tử tại giaPhật tử xuất gia, những Phật tử phát tâm tu hạnh Bồ Tát giới là để rộng bề làm Phật sựhóa độ chúng sinh. Bồ Tát giới gồm có:

1- Nhiếp luật nghi giới: Người thọ trì Bồ Tát giới quyết giữ 12 trọng giới và 48 khinh giới, nghĩa là quyết không phạm một việc ác nào cả.

2- Nhiếp thiện pháp giới: Người thọ trì Bồ Tát giới quyết làm tất cả các việc lành.

3- Nhiêu ích hữu tình giới: Người thọ trì Bồ Tát giới quyết tu hạnh từ bi hỉ xả, làm tất cả các điều lợi ích cho tất cả chúng sanh, không một loài nào mà không hóa độ.


III). Trì giới như thế nào? Có hai cách:

1)- Trì giới chấp tướng:trì giới do vì danh được người ta khen, vì bị người khác ép hay nể người khác mà trì giới, vì ganh đua hay tự hào mà trì giới; những loại trì giới như thế, chỉ có bề ngoài, miễn cưỡng, tự cao tự đại, giả dối đánh lừa người khác, trì giới như thế không có lợi ích gì cả, vì bên trong ô nhiễm xấu xa.

2)- Trì giới vô tướng: Trì giới không chấp tướng, theo đúng các điều Phật dạy mà thi hành, không vì danh hay bị ép, không vì nể vì ganh đuatrì giới. Trong khi giữ giới không hề nghĩ mình giỏi hơn người hay có ý nghĩ khinh chê người phạm giới, mà chỉ nghĩ trì giới là bổn phận của mình không thực hành không được; trì giới với tâm như thế mới đúng là trì giới rộng lớn (Ba La Mật).

Trong T ạp A H àm quyển 2 trang 609 và Tăng Nhất A Hàm, quyển 3, trang 551, đức Phật dạy người tu: “Chẳng thà ngủ nghỉ chứ không trong lúc tỉnh táo tư tưởng suy nghĩ điên đảo. Thà dùng sắt nóng nung vào mắt chứ không do nhìn sắc đẹp xấu mà khởi loạn tưởng, thà dùng dùi nhọn đâm thủng lỗ tai chứ không vì nghe tiếng hay dở mà khởi loạn tưởng, thà dùng kìm nóng kẹp đứt lỗ mũi chứ không do ngửi mùi mà khởi yêu ghét, thà dùng dao bén cắt lưỡi chứ không nói lời ác, thà dùng lá đồng nung đỏ cuốn quanh người, chứ không khởi nghĩ dâm dục”.

Trang 550 đức Phật dạy: “Nếu người trì giới giảm, người ác nổi lên, khi ấy chính pháp dần dần suy đồi, phi pháp tăng lên, chúng sanh trong ấy sẽ rơi vào ba đường ác. Nếu người trì giới đầy đủ, người phạm giới giảm xuống, chính pháp hưng thịnh, chúng sinh trong đó khi mạng chung đều sinh lên cõi Trời, cõi Người”.


IV). Vấn đề đối với người tu:

Giới luật của đức Phật đặt ra chỉ có mục đích làm lợi cho người giữ giới thực hành, người tu mau đạt qủa vị tốt đẹp; giới luật của đức Phật không đặt kỷ luật trừng phạt người không tuân theo, có thi hành hay không là tuỳ tâm tự liệu lấy, và cũng tuỳ theo đó mà được hưởng ít nhiều phúc đức. Như trong thế gian: sống chừng mực, lương thiện được nhiều người khen ngợi, còn người sống buông thả, không kỉ cương, gây rối, lừa bịp, bị pháp luật trừng trị, và mọi người chê bai.

Đối với người tu hành, trì giới đầy đủ, sẽ sáng như mặt trăng trong đêm tối giữa các vì sao. Còn đối với người không giữ giới, sẽ có rất nhiều tai hại như:

Thứ nhất: Những người khác trông thấy người ấy phạm giới sẽ chê bai, xa lánh.

Thứ hai: Nếu không ai thấy, không ai nghe người ấy phạm giới, mà sự thực người ấy có phạm giới, người ấy sẽ tự hổ thẹn với chính mình.

Thứ ba: Nếu người ấy không tự hổ thẹn, người ấy sẽ chẳng bao giờ tu tới nơi tới chốn được, rút cục người ấy chỉ quẩn quanh trong luân hồi sinh tử khổ não mà thôi.

Thí dụ một tu sĩ nam thường hay cùng một nữ nhân chuyện trò, gặp gỡ, đi lại cùng với nhau nhiều lần, đây có thể gọi là gần gũi; người ngoài sẽ nghi ngờ, đặt dấu hỏi tại sao hai người này thường giao tiếp gặp nhau? Dù người đó có chân thật tới đâu đi nữa, nhưng đức Phật đã cấm tiếp xúc riêng lẻ giữa nam và nữ; Đức Phật cấm như thế để ngăn ngừa “lửa gần rơm lâu ngày sẽ bén”, cũng như lửa gần xăng sẽ dễ bùng cháy. Người tu hành không được tiếp xúc nhiều ngay với cả người cùng phái, bớt sự này sự nọ, phải gìn giữ sáu căn là mắt, tai, mũi, miệng, thân và ý, không cho phóng chạy, không cho dính mắc sáu trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp; có như vậy tâm mới được bình thản, dễ đi đến thanh tịnh, cho nên người có tâm dính mắc, tu chẳng ích gì.

Có người nói: “Tại sao có người tu hành làm các việc giao tiếp xấu xa, có người tu hành chỉ lo làm việc đời không lo tu, mà không thấy ai nói gì, người ấy vẫn cứ tiếp tục ngang nhiên như thế?” Câu trả lờiPhật giáo không chủ trương trừng phạt một ai, nếu biết người kia làm sai, phạm giới, thì chê bai, xa lánh, chứ không trừng phạt. Vì lẽ đó, người ấy vẫn tiếp tục đường lối của họ, tự làm tự lãnh hậu qủa là sau khi chết sẽ sinh vào cõi ác; tuy nhiên ngay trong hiện tại, người phạm giới vẫn có một số người tin theo, đây là vấn đề nan giải, vì những người tin theo này không thấy người ấy là phạm giới, không thấy người ấy làm sai phạm hạnh (khuôn phép), nên dù có người khác lưu ý họ vẫn không nghe, và vẫn tin theo ủng hộ người phạm giới ấy.

Chỉ có điều là nếu một tu sĩ muốn gần người khác phái, muốn hoạt động việc đời, thì đức Phật cho phép cởi áo của người tu ra và mặc áo của người đời, để trở thành người bình thường trong xã hội. Người ấy lập gia đình, hoạt động ngoài đời như mọi công dân khác, vấn đề sẽ được giải quyết dễ dàng; nhưng khi người ấy cởi bỏ áo nhà tu ra, làm người thường, không còn giá trị nữa, vì lời nói của người ấy ít có ảnh hưởng tới người khác. Bởi vậy, người ấy cố bám víu vào chiếc áo tu sĩ để lợi dụng chiếc áo phục vụ cho bản thân họ; người ấy sống như con mọt, nếu không mau mau sám hối sửa đổi kịp thời, tới lúc chết ắt sẽ vào cõi ác, lúc ấy có hối cũng không còn kịp nữa!


V). Vài trường hợp Phật dạy:

1)- Hai mươi mốt kết: Trong Tăng Nhất, quyển 1, trang 168, đức Phật bảo: “Nếu người nào có tâm dính mắc 21 kết là: Giận (sân), làm hao tổn (nhuế hại), ngủ nghỉ (thuỳ miên), chơi bời (điều hý), nghi ngờ, dữ tợn (nộ), sợ hãi (kỵ), buồn (não), ganh ghét (tật), đắng cay (tắng), không thẹn với mình (vô tàm), không xấu hổ với người (vô quý), giả vờ (huyển), gian dối, chống đối (ngụy), tranh giành, kiêu căng, phóng túng (mạn), đố kỵ, tự cao tự đại (tăng thượng mạn), tham; người này ắt đọa đường ác chẳng thể sinh cõi lành, ví như áo lông cũ nát lâu ngày dính đầy bụi, nếu muốn nhuộm màu xanh, vàng, chẳng thể thành được.

Ngược lại, nếu có người không có 21 kết nêu trên dính mắc tâm, người đó ắt sinh lên Trời, ví như áo dạ trắng mới sạch không bụi, muốn nhuộm màu nào cũng được.

2)- Ví dụ lòai vật: Cũng quyển 1, trang 206, lấy thí dụ về các loài vật để ám chỉ so sánh với người tu, đức Phật nói:

1- Kià, tại sao gọi người ví như quạ?

Như có người ở chỗ yên lặng, hằng tập dâm dục, làm các hạnh ác, lại che đậy các hành động xấu xa ấy; giống như quạ bị đói khổ, ăn đồ dơ dáy, rồi chùi mỏ sợ chim khác thấy, nói rằng con quạ này đã ăn đồ dơ bẩn; người ấy bị các người khác chỉ trích, xa lánh, sau tự hổ thẹn, hối lỗi, người này giống như quạ.

2- Kià sao gọi là người như lợn heo?

Nếu có người ở chỗ vắng vẻ, tập mãi dâm dục, làm các hạnh ác, không cần che đậy hành động xấu xa ấy; người này ví như lợn heo, hằng ăn đồ dơ bẩn, nằm chỗ thối tha nhơ nhớp, lại còn lăng xăng với các lợn heo khác; người tập dâm dục và làm các hạnh ác bị người khác chỉ trích không biết xấu hổ, chẳng hối lỗi, đối với người khác còn cống cáo khen mình là “ta đây sung sướng”, đây là người giống như lợn heo, hãy nên lià xa người này.

3- Kià sao gọi người giống như lừa?

Như có người xuất gia học đạo, lại có các căn bất tịnh, theo đuổi vạn mối, sinh các loạn tưởng, điều ác đủ cả, lại tự xưng: “Tôi cũng là người tu”. Người này ví như con lừa vào trong bầy trâu rồi tự xưng rằng: “Tôi cũng là trâu”, nhưng xem hai lỗ tai chẳng giống trâu, sừng cũng không giống, đuôi cũng chẳng giống, âm thanh cũng khác. Bấy giờ, bầy trâu hoặc lấy sừng húc, hoặc lấy chân đá, hoặc lấy miệng cắn; người tu này cũng lại như thế, các căn bất tịnh, nếu mắt thấy sắc, theo khởi tưởng sắc, rong ruổi muôn mối, sinh các loạn tưởng, điều ác đến đủ, chẳng thể bảo vệ. Tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ý biết pháp (muôn vật), theo đó khởi thức tưởng rong ruổi muôn mối, sinh các loạn tưởng. Các điều ác sinh khởi đủ cả, chẳng thể giữ được ý căn thanh tịnh. Người có phạm hạnh (Chân tu) trông thấy chỉ trích: “Chao ôi: Người ngu này tựa như người tu, nếu là người tu, đúng ra không nên như thế”; đây là người giống như lừa, hãy nên xa lià người này.

4- Người kia tại sao giống như trâu?

Nếu có người xuất gia học đạo, giữ gìn sáu căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý không cho rong ruổi theo sáu trần sắc thanh hương vị xúc pháp; tâm ý không loạn động được thanh tịnh, liền được đến chỗ phạm hạnh (khuôn mẫu). Các bậc phạm hạnh thấy người kia, ai nấy đều kêu lên: “Mừng bạn đồng học Phật”. Ví như trâu vào trong bầy trâu, có tai, sừng, đuôi, âm thanh đều đúng là trâu; các con trâu trong đàn thấy rồi, mỗi con đến liếm đầu mặt; đây là người giống như trâu, nên làm người học như trâu, mà không nên làm người giống như quạ, lợn, lừa.


VI). Trì giớiích lợi gì?

Phật tử thọ trì giới luật nghiêm chỉnh sẽ được an vui tự tại và được mọi người tôn trọng coi như một tấm gương sáng để soi; hành giả trì giới trang nghiêm sẽ đưa đến tâm thanh tịnh, rất có lợi cho hành giả trong khi tu hành; nếu kiếp này chưa thấy dấu đạo, kiếp sau sẽ đắc quả Bồ Đề thoát vòng sinh tử luân hồi.

Trì giới nằm trong Lục Độbố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, và trí huệ, có một công năng hơn hẳn bố thí một bậc; người bố thí mà không trì giới, không thể tiến được, vì sao? Vì vừa tạo phúc do bố thí, vừa tạo tội do không trì giới, tức là vừa tạo phúc vừa tạo tội, thiện ác lẫn lộn đủ cả như thế, làm sao bước lên qủa Thánh được?

Khi Hành giả trì giới dẫn đến được tâm thanh tịnh, sẽ phát khởi tâm từ bi hỉ xả, nên khi thấy người bố thí liền sinh tâm vui vẻ tán thán công đức ấy, như vậy là “tùy hỉ công đức bố thí”; hành giả khi hành trì giới luật nghiêm trang, người khác thấy thế bắt chước, như thế là đã dùng “thân giáo” để bố thí pháp.

Vì vậy: trì giới rộng lớn (Ba La Mật) là một phương pháp thần diệu có thể bao gồm cả bố thí lẫn trì giới, chắc chắn sẽ đưa hành giả tới bờ giải thoát vậy.

Tóm lại, chúng ta thấy rõ sự lợi ích của trì giới lớn lao như thế, giờ đây chỉ còn một điều là chúng ta phải quyết định dứt khoát phát tâm dũng mãnh trì giới rộng lớn (Ba La Mật). Khi phát tâm rồi, phải thực hành cho tới nơi tới chốn, vì học thì phải hành (học hành), khi đã học rồi phải tu, nếu học mà không tu, cũng như cái đẫy, cái bồ đựng chữ; tu mà không học thì thiếu sót, tu mà không hành (tu hành) thì vô bổ, ích gì?


Toàn Không


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 23974)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41226)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19705)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 24009)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21749)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23316)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27510)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26579)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29327)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33211)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20209)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25789)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20924)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31334)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38589)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21451)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44277)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29838)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42227)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22147)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45786)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32129)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23973)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24399)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29287)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33932)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27693)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32153)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21074)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28859)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21599)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28090)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22085)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21448)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19516)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19479)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19844)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19263)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29206)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20629)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28308)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23655)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33205)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31852)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21389)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39637)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21567)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19387)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26413)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24839)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21760)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22400)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29144)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22563)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20476)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23535)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21245)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35342)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24552)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
(Xem: 31350)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant