Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm Thứ Mười Một: Không Vô Tướng

30 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 13338)
Phẩm Thứ Mười Một: Không Vô Tướng


PHÁT BỒ ĐỀ TÂM KINH LUẬN
Bồ Tát Thế Thân tạo
Tam Tạng Pháp Sư Cưu La Ma Thập dịch Hán
Tỳ Kheo Thích Nhất Chân dịch Việt

PHẨM THỨ MƯỜI MỘT
KHÔNG VÔ TƯỚNG

 Thuở xưa có một thời Phật tại vườn trúc Ca Lan Đà cùng chư đại chúng vô lượng tập hội. Lúc ấy Thế Tôn tuyên bày chính pháp, nói cùng đại chúng “các pháp Như Lai tuyên thuyết (vốn là) không có tính, KHÔNG, không có gì hết (vô sở hữu). Rất khó tin khó hiểu đối với tất cả thế gian. Tại sao vậy? Sắc không trói buộc không cởi mở, thọ tưởng hành thức không trói buộc không cởi mở. Sắc không có tướng, lìa (hết) các tướng, thọ tưởng hành thức không có niệm, lìa (hết) các niệm. Nhãn và sắc, nhĩ và thanh, tị và hương, thiệt và vị, thân và xúc, ý và pháp cũng y như vậy, không thủ không xả, không cấu không tịnh, không đi không lại, không hướng đến không lìa bỏ, không tối không sáng, không si không huệ, chẳng phải bờ này chẳng phải bờ kia, chẳng phải giữa dòng. Như thế gọi là không có trói buộc. Không có trói buộc nên là KHÔNG. KHÔNG (được) gọi là vô tướng, vô tướng này cũng là KHÔNG, như thế gọi là KHÔNG. KHÔNG (được) gọi là vô niệm, vô niệm (này) cũng là KHÔNG, như thế gọi là KHÔNG. KHÔNG niệm (này) cũng là KHÔNG, như thế gọi là KHÔNG. Trong KHÔNG không có thiện không có ác, cho đến cũng không có tướng KHÔNG, cho nên gọi là KHÔNG”.

Bồ Tát nếu biết được tính của ấm giới nhập (là) như thế, thì sẽ không giữ bám (thủ trước), như thế gọi là pháp nhẫn. Bồ Tát do nhẫn như thế nên đắc thọ ký nhẫn.

Chư Phật tử, ví như Bồ Tát ngước viết lên hư không, viết đủ 12 bộ kinh của Như Lai, trải qua vô lượng kiếp Phật pháp diệt rồi, những người cầu pháp không thấy không nghe được gì, (lúc ấy) chúng sinh điên đảo tạo vô biên ác. Lại có các người với trí huệ thanh tịnh ở các phương khác, thương xót các chúng sinh (muốn) cầu rộng về Phật pháp, nên đi đến phương này, thấy chữ trong hư không, nét viết rõ ràng nên (thấy là) hiểu được ngay. (Rồi) đọc tụng thọ trì, đúng như kinh nói mà thật hành, diễn nói phân biệt rộng rãi để lợi ích cho chúng sinh. (Vậy) người viết chữ trong hư không và ngườii biết (đọc) chữ trong hư không này có dễ suy lường được chăng? (Như thế) song (còn) có thể tuyên truyền tu tập thọ trì, để dẫn đạo chúng sinh khiến họ lìa khỏi trói buộc.

Chư Phật tử !Như Lai nói rằng: Vào thời quá khứ (khi Ngài) cầu đạo Bồ Đề (Ngài) được gặp gỡ 33 ức chín vạn tám ngàn vị Phật. Vào các lúc ấy, (Ngài) đều là Chuyển Luân Thánh Vương. (Ngài) đem tất cả các đồ dùng tốt đẹp cúng dường lên chư Phật và chúng đệ tử. Do bởi vì (lúc ấy Ngài thấy) có đắc được (hữu sở đắc) cho nên không được thọ ký. Sau đó lại được gặp tám vạn bốn ngàn ức chín vạn Bích Chi Phật, (Ngài) cũng suốt đời đem bốn sự cúng dường cho. Qua khỏi giai đoạn ấy, lại gặp sáu trăm hai mươi vạn một ngàn hai trăm sáu mươi mốt Phật. Các lúc ấy cũng đều là Chuyển Luân Thánh Vương, đem tất cả các đồ dùng tốt đẹp cúng dường suốt đời. (Lại còn) sau khi chư Phật diệt độ, dựng tháp bảy báu cúng dường xá lợi. Sau đó có Phật xuất thếtiếp đón cầu thỉnh các Ngài chuyển chính pháp luân. Cúng dường như thế trăm ngàn vạn ức vị Phật, các đấng Như Lai này đều ở trong Pháp KHÔNG mà nói lên các pháp tướng. Do (lúc ấy Ngài thấy) có đắc được (hữu sở đắc) nên đều không được (chư Phật) thọ ký. Lần lượt như thế cho đến khi gặp được Phật Nhiên Đăng ra đời (Ngài) gặp Phật nghe pháp tức thời đắc được tất cả vô sinh pháp nhẫn. Đắc được nhẫn này rồi mới được thọ ký, Nhiên Đăng Như Lai ở trong pháp KHÔNG nói lên các pháp tướng, độ thoát vô lượng trăm ngàn chúng sinh, song không (hề) có nói gì, cũng chẳng độ ai hết.

Mâu Ni Thế Tôn xuất hiện với đời ở trong pháp KHÔNG nói ra có văn tự, dạy bày (cho được) ích lợi (mà) vui mừng, (khiến) khắp (chúng sinh) được thọ trì và thật hành, song không có dạy bày gì hết (mà) cũng không có ai thọ trì thật hành. Phải hiểu các pháp tính tướng đều trọn là KHÔNG. Người viết (chữ trong không) cũng là KHÔNG, người biết (đọc chữ trong không) cũng là KHÔNG, người nói (pháp) cũng là KHÔNG, người hiểu (pháp) cũng là KHÔNG. Từ vốn xưa nay KHÔNG (nên) vị lai cũng là KHÔNG, hiện tại cũng là KHÔNG. Song do chư Bồ Tát tích tập vạn thiện (như) lực phương tiện, tinh cần không lười mỏi, công đức thành mãn (nên) đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Điều này quả là vô cùng khó khăn không thể suy lường. Trong chỗ vô pháp (mà) nói lên các pháp tướng, trong chỗ vô đắc nói pháp có đắc. Các sự việc ấy (cũng như) cảnh giới cũa chư Phật, phải dùng đến vô lượng trí mới có thể hiểu rõ được, chứ không phải do suy lường mà có thể biết được.

Bồ Tát mới phát ý thành tâm kính ngưỡng yêu thích Bồ Đề, do tin lời nói của Phật nên từ từ được nhập vào (Bồ Đề). Thế nào là tin? Tin quán tứ đế trừ các phiền não vọng kiến kết trói đắc A La Hán (quả). Tin quán mười hai nhân duyên diệt trừ vô minh sinh khởi các hành đắc Bích Chi Phật. Tin tu bốn tâm vô lượng, sáu Ba La Mật đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Như thế gọi là tín nhẫn.

Chúng sinh ở trong sinh tử vô thuỷ nắm lấy tướng mà chấp trước không thấy pháp tính, thì phải trước hết quán sát ngũ ấm của chính thân mình (chỉ là) chúng sinh giả danh. Trong (năm ấm) ấy không có ngã, không có chúng sinh. Tại sao vậy? Nếu mà có ngã, ngã phải tự tại, song các chúng sinh lại thường bị sinh lão bệnh tử xâm phạm làm hại không được tự tại, (nên) phải biết là không có ngã. Không có ngã tức không có tác giả. Không có tác giả (nên) cũng không có thọ giả. Pháp tính thanh tịnh như thật thường trụ. Quán sát như thế cũng chưa thể là cứu cánh được. Như thế gọi là thuận nhẫn. Bồ Tát tu tín, thuận nhẫn rồi, không lâu sẽ thành tối thượng pháp nhẫn.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14775)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11837)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12771)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10353)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 12072)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15302)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11090)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10551)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12484)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16437)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14321)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11802)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14816)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12041)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16864)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11594)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12743)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11350)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12066)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52169)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15475)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13976)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11451)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13191)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12793)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13229)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17924)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12462)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12658)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54218)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14437)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9937)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13830)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 58000)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14515)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20158)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13798)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15415)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17504)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13325)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11940)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13497)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14676)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12500)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12161)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 12073)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13296)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12549)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13672)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13337)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25614)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12188)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14565)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11870)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42086)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28355)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38829)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14732)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12709)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16254)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant