Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

16-18 Phẩm Tha Hoá Tự Tại Thiên Thọ Ký

30 Tháng Tư 201000:00(Xem: 8666)
16-18 Phẩm Tha Hoá Tự Tại Thiên Thọ Ký
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999

XVI
PHÁP HỘI
BỒ TÁT KIẾN THIỆT
THỨ MƯỜI SÁU

Hán Dịch: Cao Tế, Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá
Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh

Phẩm Tha Hoá Tự Tại Thiên Thọ Ký
Thứ Mười Tám

 Bấy giờ có Tha Hóa Tự Tại Thiên Vương làm đầu cùng quyến thuộc tám mươi na do tha chúng trời Tha Hóa Tự Tại thấy A Tu La nhẫn đến chúng trời Hóa Lạc cúng dường Phật được thọ ký, họ đều vui mừng hớn hở được vừa lòng khác miệng đồng lời bạch đức Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Chúng trời Hóa Lạc nói thiệt tế, chúng tôi còn chẳng thấy thiệt huống là thấy tế. Tại sao? Bạch đức Thế Tôn! Nếu thấy thiệt mới được nói là thấy tế. Tại sao? Người ấy hành nơi hai chỗ. Nếu thiện nam tử thiện nữ nhơn, người ở nơi thừa như vậy, phải vì họ nói hai thứ pháp ấy. Hai pháp ấy chẳng phải chơn cảnh giới.

 Bạch đức Thế Tôn! Nếu thiện nam tử thiện nữ nhơn ở nơi pháp bất nhị mà chẳng tin chẳng nhập, dầu người nầy có phát tâm trông được Bồ đề, phải biết người nầy đi sai đường. Tại sao? Vì nơi Bồ đề chẳng phải đường đi vậy.

 Bạch đức Thế Tôn! Nếu có chúng sanh cầu Bồ đề, người ấy chẳng thấy có một pháp được giác ngộ. Tại sao? Vì không có chút pháp gì có thể được giác ngộ Vô thượng Bồ đề vậy.

 Bạch đức Thế Tôn! Pháp ấy chẳng phải quá khứ , chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại, chẳng phải hữu vi, chảng phải vô vi, chẳng phải có chẳng phải không, chẳng phải được hay, chẳng phải được biết, chẳng phải được xả, chẳng phải được tu, chẳng phải được chứng. Nói là Bồ đề ấy, pháp đó chẳng cùng pháp đó làm đối trị. Pháp khác cũng chẳng cùng pháp đó làm đối trị. Tại sao? Pháp đó chẳng tạp phiền não chẳng rời phiền não, pháp thể bất khả đắc, vì tánh tự ly vậy.

 Pháp nầy chẳng cùng pháp đó làm đối trị, pháp đó cũng chẳng cùng pháp nầy làm đối trị. Tại sao? Vì tất cả các pháp đều lìa tướng vậy. Vì thế nên pháp đó chẳng phải được biết, được hay, được xả, được tu, được chứng.

 Bạch đức Thế Tôn! Sắc sanh ấy lìa tướng sanh, nó cũng chẳng phải được biết được hay được xả được tu được chứng. Thọ tưởng hành và thức cũng như vậy.

 Bạch đức Thế Tôn! Sắc diệt ấy lìa tướng diệt, nó cũng chẳng phải được biết được hay được xả được tu được chứng. Thọ tưởng hành và thức cũng như vậy.

 Bạch đức Thế Tôn! Quá khứ ấy lìa tướng quá khứ, nó cũng chẵng phải biết được hay được xả được tu được chứng. Vị laihiện tại cũng như vậy.

 Bạch đức Thế Tôn! Hữu vi ấy lìa tướng hữu vi, nó cũng chẳng phải được biết được hay được xả được tu được chứng. Vô vi ấy củng như vậy.

 Bạch đức Thế Tôn! Nhu vậy, nhẩn đến được nhiếp nơi ấm, được nhiếp nơi quá khứ vị lai hiện tại, được nhiếp nơi hữu vi vô vi, tất cả các pháp ấy đều bất khả đắc. Vì bất khả đắc nên tất cả pháp ấy chẳng phải được biết được hay được xả được tu được chứng.

 Bạch đức Thế Tôn! Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhơn như vậy vì cầu Bồ đề phát tâm tu hành, họ đều gọi là người an trụ Bồ Tátt thừa”.

 
 Tám mươi na do tha chúng trời Tha Hóa Tự Tại đều nói pháp của mình đã biết rồi, đồng nói kệ tán thán đức Phật:

 “Thế Tôn khéo nói tận hữu biên
 Vĩnh viễn chẳng thọ thân sáu đạo
 Người đời vô trí sợ sanh tử
 Phát tâm muốn qua bờ sanh tử
 Thể các ấm ấy bất khả đắc
 Bởi tánh tướng ấm vốn tự không
 Tất cả pháp không đều vô tướng
 Vì thế các pháp lìa đối trị
 Tự thể tức không chẳng có vật
 Không có được biết và xả tu
 Cũng là chẳng phải pháp được chứng
 Như Lai nói hữu tức phi hữu
 Tướng cầu Bồ đề bất khả đắc
 Các pháp trợ đạo cũng bất đắc
 Lấy tâm cầu Phật bất khả đắc
 Tướng Bồ Tát tìm cũng chẳng được
 Nắm chặc các tướng hạng ngu si
 Bọn họ trông được ngộ Bồ đề
 Cảnh giới điên đảo chấp lấy tướng
 Chẳng phải đi đúng Bồ đề đạo
 Nhập Phật cảnh giới lìa các tướng
 Gọi là người trí hành đúng pháp
 Lìa xa các tướng và vô tướng
 Cũng lìa nơi không và bất không
 Người nầy ngộ được đạo vô thượng
 Chẳng phải cảnh giới của ngoại đạo
 Chẳng phải Thanh Văn mà biết được
 Chẳng phải Duyên Giác có thể đến
 Tâm được giải thoát tịnh vô cấu
 Pháp ấy La Hán được tương ưng
 Và cùng tất cả Bích Chi Phật
 Chẳng phải cảnh của trí huệ họ
 Câu ấy tâm có tướng chẳng biết
 Người tu thiên không cũng chẳng hiểu
 Nếu có ai hiểu không nói không
 Cũng nói các pháp không tự tánh
 Họ thọ Phật giáo không chê bai
 Đây gọi là khéo tu không tịch
 Ngộ được đạo Bồ đề khó ngộ
 Nơi đó Phật là chơn Đạo sư
 Khen Phật Lưỡng Túc Thế Tôn rồi
 Liền được vô lượng các công đức
 Hồi hướng cho tất cả quần sanh
 Thành Phật giác ngộ người chưa ngộ”.
 

 Đức Phật biết Thiên Vương và tám muơi na do tha trời Tha Hóa Tự Tại sanh lòng sâu tin ưa rồi, vì muốn đại chúng thêm lớn thiện căn nên hiện mỉm cười.

 Huệ Mạng Mã Thắng nói kệ bạch hỏi đức Phật:

 “Lưỡng Túc Thế Tôn hiện mỉm cười
 Vì biết Tha Hóa tin sâu vậy
 Phật chưa tuyên nói nhơn duyên cười
 Ngưỡng mong Như Lai giải thích cho
 Đại Thánh hôm nay chẳng không nhơn
 Mà hiện tướng mỉm cười hi hữu
 Mong Phật nói rõ duyên cớ ấy
 Dứt trừ nghi hoặc cho đại chúng
 Vì thấy Thế Tôn hiện mỉm cười
 Nên nay chúng hội đều hoài nghi
 Đấng thương mến tất cả thế gian
 Ngưỡng mong giải bày nói rành rẽ
 Chúng hội thảy đều trái sanh tử
 Hiệp chưởng cung kính cầu Niết bàn
 Với cớ Phật cười đều hoài nghi
 Đấng Vô Ngại Thuyết xin trừ dứt
 Đại chúng đều tin pháp của Phật
 Tâm được hiểu ro’ lìa thủ trước
 Đều có tâm tin sâu tôn trọng
 Lành thay Mâu Ni xin nói rõ
 Dũng mãnh tinh tấn nơi Phật pháp
 Lìa xa lưới nghi lên đường thánh
 Tất cả chư Phật đi đường nầy
 Vì thế xin trừ nghi cho chúng”.

 Đức Thế Tôn nói kệ đáp Mã Thắng Tỳ Kheo:

 “Ông vì lợi ích cho đại chúng
 Nói kệ hỏi Phật thiệt phải thời
 Đầy đủ biện tài có xảo tiện
 Mới hay hỏi được nghĩa mỉm cười
 Do hỏi Như Lai tướng mỉm cười
 Chắc sẽ lợi ích vô lượng chúng
 Do tất cả các chúng hội
 Đều được an trụ thắng Bồ đề
 Biết chúng Tha Hóa tin sâu rồi
 Nên Phật mới hiện tướng cười sáng
 Tất cả tùy thuận Như Lai giáo
 Vì cầu Bồ đề tu diệu hạnh
 Quan sát thế pháp lìa các tướng
 Như thấy dương diệm chẳng chơn thiệt
 Người ngu thấy diệm cho là nưuớc
 Muốn cầu Bồ đề chớ đồng họ
 Phàm phu thủ tướng tham cảnh vui
 Vô trí thường sợ nơi vô tướng
 Người ngu chấp tướng bỏ chánh lộ
 Lìa tướng thì được diệu Bồ đề
 Vọng tưởng tư lương pháp hư ngụy
 Theo pháp phân biệt liền bị trói
 Người trí thấy tướng thảy đều không
 Được đà la ni thượng tịch diệt
 Phàm phu chấp tướng trụ ác tâm
 Họ đều vô trí đọa lục đạo
 Luân hồi sanh tử bị nhiều khổ
 Vì họ ngu si chấp tướng vậy
 Chúng sanh trước tướng thấy các ấm
 Phật và Bồ đề cùng Bồ Tát
 Người trí lìa tướng thấy không rồi
 Hay được Bồ đề đại Vô thượng
 Những kẽ chấp tướng tăng phiền não
 Hay quán vô tướng trừ kiết sử
 Nói là kiết sử tức là tướng
 Quán kiết vô tướng liền dứt trừ
 Nếu người cầu đạophân biệt
 Phân biệt nơi đạo là chướng ngại
 Người trí dầu là hành nơi dục
 Dục ấy tức là vô tướng hành
 Các pháp không thể bất khả đắc
 Phân biệt các pháp nói là không
 Nếu lìa phân biệt được vô tướng
 Đó là Bồ đề không còn khác
 Nghe nơi Thiện Thệ nói lời ấy
 Đại chúng trừ nghi được vô úy
 Đảnh thọ lấy pháp Mâu Ni nói
 Như người đầu đội hoa chiêm bặc
 Chúng trời Tha Hóa được vô úy
 Cúng dường nơi Phật rất hơn hết
 Họ biết các pháp cảnh giới Phật
 Sẽ làm thế gian đại Đạo Sư ».
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15793)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 11094)
Nguyên tánh chân nhưlặng lẽsáng suốt không có gì gọi là chúng sanh (ngã), vũ trụ (pháp)...
(Xem: 53698)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 13010)
Bồ-tát Mã Minh tạo luận, Tam tạng pháp sư Chân Đế dịch Hán. HT Thích Trí Quang dịch giải Việt
(Xem: 16548)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15423)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 19184)
"Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật".
(Xem: 19961)
Tại Na-lan-Đà có một phái tu khổ hạnh, vị đứng đầu là Ni-kiền Thân-Tử, ông có cả nghìn đệ-tử, và có người tôn xưng ông là bậc Thánh...
(Xem: 15581)
Được HT Thích Tuệ Sỹ dịch theo bản Sanskrit, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành năm Quý Mùi.
(Xem: 15370)
Tiếng Phạn “Sa Di”, ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành điều từ, dứt nhiễm ô thế giantừ bi cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch là Cầu Tịch.
(Xem: 15162)
“Sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng, kính quý Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) như tối tăm gặp ánh sáng, như nghèo khó được của báu."
(Xem: 20372)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 23992)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 15516)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 13067)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nghiệp nhân gieo tạo đời trước mà cảm thọ quả báo hiện tại.
(Xem: 20176)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 13305)
Thành thật luận (Satyasiddhi-sastra) do Ha-lê-bat-ma tạo luận, Cưu-ma-la-thập dịch Hán, Nguyên Hồng dịch Việt, thâu lục trong Đại chính, Đại Tạng Kinh số No 1647.
(Xem: 29039)
Chân Như Quan Của Phật Giáo (Ðặc biệt lấy Bát-Nhã làm trung tâm) Nguyên tác: Kimura Taiken; Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
(Xem: 11731)
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho toàn thể quý học chúng Bồ tát giới tại gia, có đầy đủ bi trí lực để hoàn thành bản nguyện tự lợi, lợi tha, trong khung trời giải thoát tự tại của chánh pháp Như Lai.
(Xem: 18328)
Tôi được Tăng sai phụ trách hướng dẫn Bồ tát Học xứ cho chúng Giới tử tân thọ Bồ tát giới...
(Xem: 16660)
Kinh AN BAN THỦ Ý là một trong những bản kinh được xuất bản sớm nhất ở Viễn Đông và đã góp phần vào việc phổ biến Phật giáo qua việc giảng dạy cách thức thiền tập...
(Xem: 13265)
Bồ tát Long Thọ trước tác Trung luận gồm 27 phẩm (chương) 446 bài kệ, mỗi bài 4 câu, mỗi câu 5 chữ. Ở Ấn Độ các bản luận giải thích như Vô Úy luận...
(Xem: 12826)
Trong Luật tạng, bộ Luật đầu tiên theo trong sử nhắc đến là bộ Bát thập tụng luật do Tôn giả Ưu-ba-li tám mươi lần ngồi tụng thì mới xong bộ Luật của Phật dạy.
(Xem: 13277)
Một thời Đức Thế Tôn ở tại cung điện của chú tể Đại dương, cùng với chúng đại tỳ kheo tám ngàn vị và chúng đại bồ tát ba mươi hai ngàn vị.
(Xem: 13011)
Người giảng: Lão Hòa thượng Tịnh Không; Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ – Viên Đạt cư sĩ; Biên tập: Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 12906)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 215, Hán dịch Pháp Cự; Việt dịch: Thích Bảo An
(Xem: 13036)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 706, Bộ Kinh Tập, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Thiên Ân
(Xem: 13567)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 số 1648 thuộc Luận Tập Bộ Toàn; Ưu Ba Đề Sa; Tăng Già Bà La; HT Thích Như Điển
(Xem: 11739)
Vãng sinh tập đều ghi chép nhiều truyện có thật đời xưa tu Tịnh độ được vãng sinh Tây phương của đủ các hạng người xuất gia lẫn tại gia, của cả loài vật... Chúc Đức dịch Việt
(Xem: 14267)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Luận Tập, Kinh số 1666; Bồ-tát Mã Minh tạo luận; Hán dịch: Chân Đế; Việt dịch: Nguyên Hồng
(Xem: 17765)
Đây là một quyển kinh Phật Giáo rất phổ thông và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng quan trọng trên thế giới... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22642)
Kinh Pháp Hoa ai cũng biết là bộ Kinh Tối Thượng Thừa mà nó không phải Đại Thừa và cũng gọi là Phật Thừa... HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 13475)
Kinh PHÁP-HOA là một bộ kinh lớn mà từ xưa đến nay, sau khi đức Phật diệt-độ, được lưu thông nhứt và được nhiều người tụng-trì nhứt trong các bộ kinh lớn... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 14361)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Hoa Nghiêm, Kinh số 0301, Hán dịch: Thật Xoa Nan Ðà; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 105826)
Sám văn gồm có ba cuốn ngày nay là sám văn ấy. Đem nước từ bi tam muội rửa sạch oan nghiệp nhiều kiếp, lấy ý nghĩa đó để mệnh danh Thủy sám... HT Thích Trí Quang
(Xem: 14626)
Trong đời mạt pháp, các đệ tử của ta chỉ đeo đuổi theo bên ngoài, ít có ai quan niệm đến vấn đề Sanh Tử... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 19816)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0665, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 38456)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0642; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Định Huệ
(Xem: 15555)
阿 毘 達 磨 俱 舍 論 A Tì Đạt Ma Câu Xá Luận I... dịch theo bản Sanskrit... Tuệ Sỹ
(Xem: 34716)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 16086)
Phật Thừa Tôn Yếu luận là một trong nhiều tác phẩm của Đại sư Thái Hư, mang ý nghĩa bao quát nội dung giáo nghĩa Đại thừa Tiểu thừa... Thích Thiện Hạnh Dịch
(Xem: 11372)
Kim Sư Tử Chương là một tác phẩm rất ngắn của thầy Pháp Tạng nhưng bao hàm được giáo lý của Kinh Hoa Nghiêm... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 15688)
Luận Phật Thừa Tông Yếutùy thuận theo thời cơ lược nói về tông bảncương yếu của Phật pháp... Nguyên tác: Đại sư Thái Hư; Thích Nhật Quang dịch Việt
(Xem: 14053)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0639, Hán dịch: Na Liên Ðề Da Xá, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12853)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0628, Hán dịch: Pháp Thiên, Việt dịch: Thích nữ Tịnh Nguyên
(Xem: 13733)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0626, Hán dịch: Chi Lâu Ca Sấm, Việt dịch: Phật tử Phước Thắng
(Xem: 12531)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0619, Hán dịch: Đàm Ma Mật Đa, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 19405)
Từ Bi Thủy Sám Pháp - Trước thuật: Ngộ Đạt Thiền Sư; Dịch Giả: Thích Huyền Dung
(Xem: 27051)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, số 2076, Nguyên tác Đạo Nguyên, Việt dịch: Lý Việt Dũng
(Xem: 13167)
Thiết Lập Tịnh Độ là quyển sách của HT Thích Nhất Hạnh giảng giải về Kinh A Di Đà với góc nhìn thiền học
(Xem: 13506)
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí-Tịnh, Anh dịch: Quảng Định / Quảng Hiếu hiệu đính, Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 21635)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0615, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 18002)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0614, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 21941)
Quyển "Thập thiện nghiệp đạo kinh giảng yếu" của ngài Thái Hư Pháp sư, thấy tóm tắt dễ hiểu, lời lẽ giản dị mà ý nghĩa đầy đủ, lại rất hợp với căn cơ hiện tại... Thái Hư
(Xem: 14237)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0600, Hán dịch: Thực Soa Nan Đà, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 16096)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0599, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 16172)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 19146)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 24811)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant