Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần Dẫn Nhập

18 Tháng Năm 201000:00(Xem: 7845)
Phần Dẫn Nhập
KINH GIẢI THÂM MẬT
HT. Thích Trí Quang dịch giải 23.10.1988 PL 2532
Đệ Tử Thượng Thiện Hạ Thanh, Long Beach CA, USA Ấn Tống

Phần Dẫn Nhập 

 

(1) Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736). Tháng 3 năm 51 tuổi, dương lịch 646, ngài Huyền tráng khởi dịch Du dà, năm sau dịch Giải thâm mật, tháng 3 năm sau nữa dịch xong Du dà. Giải thâm mật của ngài Huyền tráng dịch được gọi tắt là Đường dịch.

Trước đó, dương lịch 453 (hoặc 443), ngài Cầu na bạt đà la đã dịch 2 phẩm bảy và tám, đề Tương tục giải thoát liễu nghĩa kinh. Dương lịch 515, ngài Bồ đề lưu chi dịch trọn bộ, đề Thâm mật giải thoát kinh, bộ này được gọi là Ngụy dịch. Dương lịch 561, ngài Chân đế dịch phẩm một mà chia nhỏ làm 4 phẩm, lại sớ giải thành 4 cuốn (tìm chưa thấy, chỉ thấy Viên sớ trích dẫn). Các bản dịch trên đây đều nằm trong Chính 16/665-720, riêng Đường dịch còn có trong Chính 30/713-736 (luận Du dà).

Tài liệu để có ghi chú trên đây là Vạn 34/299; Chính 49/94, 45, 42; Phật học nghiên cứu, bài 10 và 18 (phụ lục 3); Thế giới đại sự biểu của Từ nguyên. Ghi chú trên đây cho thấy Ngụy dịch và Đường dịch đều hoàn chỉnh. Nhưng Đường dịch hoàn hảo hơn, bởi vì dịch chủ là ngài Huyền tráng, dịch kinh này là bộ kinh căn bản của Duy thức học mà, trong Phật giáo văn hệ Trung hoa, ngài là vị sơ tổ.

Sớ giải Giải thâm mật thì bản tôi học là của đại sư Khuy cơ, bài tựa nói trích từ tác phẩm sớ giải Du dà mà khắc in riêng ra. Tiếc rằng hiện tôi không có bản này. Dò tìm cũng chưa thấy tác phẩm sớ giải Du dà nói trên. Còn bản sớ giải mà tôi hiện có là của đại sư Viên trắc. Đối với ngài Huyền tráng, đại sư là người sóng đôi mà khá mâu thuẫn với đại sư Khuy cơ, một vài truyện ký tương truyền như vậy. Đại sư Viên trắc sớ giải Giải thâm mật, nếu không phải trong lúc ngài Huyền tráng còn tại thế thì sau đó cũng không lâu. Trong sớ giải, đại sư trích dẫn lời ngài Huyền tráng khá nhiều. Bản sớ giải này gồm có 10 cuốn, nay chỉ thiếu cuốn chót, 9 cuốn hiện còn trong Vạn 34 và 35. Bản sớ giải này tôi gọi tắt là Viên sớ. Nhưng xin cảnh giác người đọc là chính văn Giải thâm mật của Viên sớ, qua Vạn 34 và 35 in lại, thì khá sai sót, nên phải dò lại chính văn ấy trong Chính 16/688-711 và 30/713-736.

Bản dịch giải của tôi lấy Đường dịch làm chính văn, lấy Viên sớ làm tài liệu tham chiếu.

(2) Giải thâm mật, Phạn tự là Sandhi-nirmocara, dịch âm là San địa niết mô chiết na. San địa có nghĩa sâu kín (thâm mật), đốt xương (cốt tiết hay tiết), nối nhau (tương tục). Niết mô chiết na là lý giải (giải), giải thoát. Vì những ý nghĩa nguyên thể và biến thể ấy mà các tên được dịch như đã thấy ở đoạn trên. Tựu trung, Đường dịch thì rõ và hay hơn cả. Còn sự thâm mật mà kinh này giúp ta lý giải thì sẽ thấy trong đoạn 3 dưới đây.

(3) Giải thâm mật có 5 cuốn 8 phẩm. Cuốn 1 có phẩm một: mở đầu (tự) phẩm hai: thắng nghĩa (thắng nghĩa đế tướng) phẩm ba: tâm thức (tâm ý thức tướng); cuốn 2 có phẩm bốn: tự tánh (nhất thế pháp tướng) phẩm năm: vô tánh (vô tự tánh tướng); cuốn 3 có phẩm sáu: du dà (phân biệt du dà); cuốn 4 có phẩm bảy: địa độ (địa ba la mật đa); cuốn 5 có phẩm tám: Phật sự (Như lai thành sở tác sự).

Tất cả 8 phẩm này Viên sớ chia làm 2 phần: mở đầu (phẩm một) và chính thuyết (phẩm hai đến tám). Phần chính thuyết có 3 mục: 1, nói về chân lý (cảnh) gồm có 4 phẩm hai đến năm; 2, nói về phương pháp (hành) gồm có 2 phẩm sáu và bảy; 3, nói về thành quả (quả) là phẩm tám. Trong mục 1, chia 4 phẩm làm 2: phẩm hai và phẩm ba nói về chân và tục, phẩm bốn và phẩm năm nói về có và không.

Phần tôi, tôi xét có thể nói nội dung Giải thâm mật cũng tương tự với Lăng dà. Lăng dà, một bộ kinh căn bản khác của Duy thức học, nói về cái "Tâm của Phật thuyết" bằng 2 phần: nói cái Tâm ấy siêu việt như thế nào, nói cái Tâm siêu việt ấy là thế nào. Kinh này rõ ràng cũng vậy: phẩm hai nói Tâm siêu việt như thế nào, phẩm ba đến tám nói Tâm siêu việt ấy là thế nào. Lại xét Nhiếp luận thì toàn văn có 3 phần là cảnh hành quả. Phần nói về cảnh có 2 phần: phần căn bảnbản thức, phần biểu hiện là ba tánh. Giải thân mật càng rõ ràng cũng vậy: phẩm ba nói về bản thức, phẩm bốn và năm nói về 3 tự tánh và 3 vô tánh. Cách nói này cho thấy bản thứccăn bản của các pháp nên gọi duy thức. Tư tưởng duy thức như vậy tương đối cổ hơn, nhưng đơn giản và sâu sắc hơn.

Vì xét như vậy, nên khác với Viên sớ, tôi chia 7 phẩm phần chính thuyết của Giải thâm mật làm 2 mục lớn: nói Tâm siêu việt như thế nào, nói Tâm siêu việt ấy là thế nào. Trong mục lớn thứ 2 cũng chia làm ba phần nhỏ: các phẩm ba đến năm nói Tâm ấy là cảnh sở quán, các phẩm sáu và bảy nói Tâm ấy là hạnh năng quán, phẩm tám nói Tâm ấy là quả sở đắc.

Với nội dung này, Giải thâm mật không những làm căn bản cho Duy thức, mà còn làm tổng kết cho Đại thừa.

23.10.2532


Cảm ơn đạo hữu Thanh Tuệ đã gửi tặng TVHS quyển kinh này (Tâm Diệu)

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12530)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14116)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10859)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10529)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11204)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 12012)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13168)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13660)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33681)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11346)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12944)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13068)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11643)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17910)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11452)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11870)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11520)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18988)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12564)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11352)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13157)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15788)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11832)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11706)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12783)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12643)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13979)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 13006)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12958)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13306)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12785)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12717)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11765)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11744)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12349)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12397)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19838)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11978)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 12001)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16898)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12685)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15072)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16132)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12900)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12256)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11929)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11936)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13166)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16521)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13239)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12506)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11835)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19873)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11172)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11272)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10410)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11107)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10983)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10049)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11761)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant