Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 02a: Giới Thiệu Bồ Tát Đạo Hay Con Đường Lý Tưởng

22 Tháng Năm 201000:00(Xem: 7182)
Phần 02a: Giới Thiệu Bồ Tát Đạo Hay Con Đường Lý Tưởng
KHÁI LUẬN TRIẾT LÝ KINH HOA NGHIÊM
Thích Đức Nhuận
Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000

Phần II

Giới thiệu Bồ Tát Đạo
Con Đường Lý Tưởng

Của Minh Đức-Thanh Lương


Bắt đầu từ đây chúng ta hãy đi vào tác phẩm “Bồ Tát Đạo ,hay Con Đường Lý tưởng”.

* Về hình thức: Sách chia làm 3 phần, 53 chương, dày trên 1.300 trang (bản chữ đánh máy).
- Về nội dung:

* Phần I – Dẫn nhập

Tác giả dẩn kinh Hoa Nghiêm, phẩm “Nhập pháp giới”- hay nhập Chân Như pháp giới, có nghĩa nhập cảnh giới Tỳ Lô Giá Na (Vairacana) pháp thân, tức thể nhập Tâm đại đồng của vũ trụ bao la, không còn phân biệt có mình hay kẻ khác, tâm và cảnh tuy hai mà một – làm nền tảng xây dựng tác phẩm. Và “cốt truyện” thì lấy đồng tử Thiện Tài (Sudhanu), một nhân vật điển hình, khát khao đi tìm con đường lý tưởng hay hạnh phúc, chân lý tuyệt đối để giải thoát cho mình và cho toàn thể nhân loại, một lòng hướng thượng cầu “nhất thiết trí” (Sarvajnata), hướng hạ phát “đại bi tâm” (Mahàkarunà), nên chàng đã đi khắp đó đây, có lúc phải băng rừng, lội suối, gian nan cực khổ, nhưng tâm vẫn chẳng hề thoái chuyển, hễ nơi đâu có ánh nắng mặt trời là (ở đó) có dấu chân chàng đi tới, chỉ cốt sao tìm minh sư thiện hữu ;chàng đã học hết các triết lý đông tây kim cổ, và đã lần lượt học mọi pháp môn thuộc tiểu thừađại thừa Phật giáo, với một lòng kiên trìhiếm có, cuối cùng, chàng đã đạt được chí nguyện…

* Phần I I – phần chính của cốt truyện

Tác giả trình bày chặng đường mà đồng tử Thiện Tài phải đi qua, tượng trưng cho 53 giai đoạn tu hành, từ lúc sơ phát tâm qua Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hành, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, sau cùng mới tới Đẳng Giác, Diệu Giácchứng quả vị tối cao:Phật Đà. Cũng cần nói thêm ở đây là, đồng tử Thiện Tài tham học với 53 vị Thiện tri thức, bắt đầu học Bồ tát Văn thù Sư Lợi ( biểu thị của Trí Tuệ), nhưng đến Bồ tát Phổ Hiền (biểu hiện của Hạnh Nguyện) mới là rốt ráo. Mà mọi nghi thức như : lễ bái, hành đạo đều là mật hạnh,là đầu đà, là trì giới v.v…do đó mà có tông phái Hoa Nghiêm, Thiên Thai, Tịnh Độ…có Phật giáo đại thừa.

Thuở Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đang ở nước Thất La Phiệt (Snavasti) tại khu rừng Thệ Đa (Jetavana), vườn của trưởng giả Cấp Cô Độc (Anathopindika) cùng với 500 vị Bồ táthằng hà sa số Thanh văn…

Trong kỳ pháp hội này, Bồ tát Văn Thù Sư Lợi (Manjusri) nhận thấy trong thính chúng có một nhân vật xuất sắc, đáng lưu ý, đó là đồng tử
Thiên Tài, một người đã trồng nhiều công đức, cúng dường rất nhiều Phật quá khứ, lại thông minh dĩnh ngộ, ham học hỏi…Nên Bồ tát Văn Thù đã vận dụng thần trí siêu việt diễn nói kinh “Phổ Chiếu Nhất Thiết Pháp Giới” thậm vi diệu, khiến cho đồng tử Thiện Tài khởi lòng cảm phục, xin qui y để cầu học Đạo Bồ tát.

Chương I. Bài học vỡ lòng do Bồ tát Văn Thù Sư lợi dạy về
“Phát Tâm Bồ Đề”và cầu “Thiện Tri Thức”

Nghe đồng tử Thiện Tài thổ lộ tâm can, thiết tha cầu đạo, và có lòng rộng rãi, biết nghĩ đến nổi khổ đau của chúng sinh,. Ngài dạy : “Muốn học Đạo Bồ tát, trước hết con phải biết phát nguyện lớn,sau phải thân cậnthiện tri thức khắp nơi đẻ học hỏi”.

Và ngài khuyên Thiện Tàinên tìm đến yết kiến hỏa thượng Công Đức Vân là người đạo cao đức trọng hiện tu ở núi Diệu Phong, nước Thắng Lạc, về phía nam. Ngài dạy tiếp: “Con nên tìm đến đó mà cầu đạo. Sau lại cứ hướng nam thẳng tiến, hãy cố gắng tìm thầy, tìm bạn để trau dồi kiến thức cho thập phần viên mãn”.

Bình luận về ý nghĩa “phát thệ nguyện lớn”, tác giả viết: “phát tâm nguyện rộng lớn quả là một cuộc cách mạng tâm hồn, một sự chiến thắng oai hùng đối với bản thân, một hiện tượng “đại tử nhất phiên”, nghĩa là chết đi những tính nết xấu, gột sạch tâm hồn cũ, siêu lên trên thế tình, ngoài vòng sai biệt ước lệ, sống cuộc đời mới..”(BTD,trang 23)

Những ai muốn thực hành Bồ Tát Đạo, tức tự nguyện đi trên con đường lý tưởng “phục vụ chúng sinh”, thì tâm phải rộng như biển cả, trí phải sáng như mặt trời, phải tự chết mình đi, để tái sinh một con người mới :con người thánh thiện, sống bằng tâm hồn Phật, một cuộc sống đẹp như bông sen, sinh ra từ trong bùn mà không nhiểm bùn (sinh tử nê, bất nhiểm ư nê) mới đủ “thắng nghĩa” để làm mọi công việc lợi ích cho đời.

Bàn về thân cận thiện tri thức đề cập đến sự học hỏi, điều rất cần cho những ai muốn mở mang trí tuệ. Người tu đạo không chỉ học cho biết rồi để đó, mà còn phải biết cách áp dụng sở học vào việc tu trì thì sự học mới thật tốt đẹp, nếu không chỉ là cái đãy đựng sách, chẳng ích lợi gì cho mìnhvà cho đời cả. Người không chịu học hỏi, thân cận thiện tri thức là người tự che dấu cái ngu dốtcủa mình, tự nuôi lòng ngã mạn, tự cao, tự đại; lời nóicử chỉ thì thô lỗ, vô lễ. Sự học hỏi có nhiều cách khác nhau: “Những cảnh rất tầm thường cũng nói lên những bài học triết lý rất sâu xa; Một bà mẹ lấy vạt áo che kín đứa con thơ nằm gọn trong lòng bàn tay trìu mến cũng gợi cho ta lòng Phật… thương chúng sinh như mẹ hiền thương con đỏ, mẹ chẳng hề rơi con một phút, thì Phật cũng luôn luôn ở cạnh chúng ta để ban cho chúng ta tình thương vô hạn”. (BTD trang 301)

Người có trí tuệ dẫu vật vô giá trị cũng làm nên có giá trị, và ngược lại …Ta hãy lấy một thí dụ : “Khi người đó chỉ mới nhìn một gốc tùng giàcỗi đứng trơ vơ bên hốc đá trên đỉnh núi, cũng có thể cho ho về dũng cảm, kiên gan, đức độ, tiết tháo, tự cường của bậc quân tử, cốn gắng vươn lên, không chịu sống tầm thường, hèn hạ như đám cỏ lau đầy bụi ở rạch nước tanh hôi bên đường, sẵn sàng cúi rạp mình trước ngọn cuồng phong để được yên thân, khỏi bị gãy đổ”(BTD trang 30)

“Phải học cho rộng, cho sâu, nghe nhiều, nói ít, suy luận kỹ càng để phá ngã, phá pháp, đạt tới trí bát nhãtâm từ bi quảng đại, vô lượng vô biên, đó là mục tiêu đầu tiên nhằm tiến tới của người bước chân vào BỒ TÁT ĐẠO hay Con Đường Lý Tưởng để tự giác, giác tha, tự lợi, lợi tha.” (BTD trang 37)

Chương 2- Hòa Thượng Công Đức Vân dạy “Pháp Môn Niệm Phật”

Theo lời thầy- Ngài Văn thù- dạy bảo, đồng tử Thiện Tài tiến về hướng nam, hỏi thăm đến nước Thắng Lạc, núi Diệu Phong, nơi hòa thượng Công Đức vân tĩnh tu để xin học đạoHòa thượng dạy cho Pháp Môn Niệm Phậtpháp môn thù thắng đệ nhất có thể áp dụng cho mọi hạng người, thông minh hay ngu tối, không phân nam, nữ, tuổi tác, ai ai cũng có thể dễ dàng thực hiện.

Hòa thượng, chỉ mới thoáng nhìn đồng tư Thiện tài đã khởi tâm thương hại người học trò quá ngây thơ chất phác, liền bảo : “Con không thấy ta lúc nàỏ cũng niệm Phật đó sao?)

“người tu hành muốn được thành Phật ắt phải học nhiều pháp môntrải qua thời gian tu tập lâu xa 3 A tăng kỳ kiếp, mà ở cõi Sa bà ô trược này có nhiều chướng ngại, laị không thường được gặp Phật thì sự thành công thật là rất khó. Muốn bảo đảm cho sự tu hành chắc chắncó kết quả mong đợi, và muốm làm an lòngnhững ai còn e ngại khó tu, khó chướng, Phật đã phải phương tiệnchỉ bày cho một đường lối thù thắng, đó là việc nhất tâm niệm Phật, cầu Vãng sinh về cõi Cực lạc của Phật A Di Đà, để thường được gặp Phật, làm bạn với các vị Bồ tát, ngày đêm được nghe tiếng pháp nhiệm mầu. Ở đó, suối reo, chim hót, tât cả đều diễn ra tiếng pháp vi diệu, sống trong cảnh thuận tiện sung sướng đó thì lo gì chẳng chúng đạo quả Vô thượng bồ đề?”

“Ta chỉ có pháp “Trì danh niệm Phật”để dạy con thôi, con khá nên nhớ lấy, và hành trì cho tới chỗ “nhất tâm bất loạn”.

Trong chương này tác giả đã khảo cứu các tài liệu về pháp môn Tịnh độ, và trình bày pháp môn này một cách hết sức sáng sủa, và khuyên hành giả muốn tu cho có kết quả : Trước hết phải có đức Tin vững chắc. Thứ nữa, phải chuyên tâm thực Hành pháp môn “trì danh niệm Phật”. Sau cùng là phát thệ Nguyện lớn cho bền vững , sâu rộng.Tín Hành nguyện là ba điều căn bản thiết yếu, không thể thiếu một mà thành tựu được .
Trong kinh A Di Đà, Đức Thích Ca bảo ngài Xá Lợi Phất (Sàriputra) rằng : “Từ đây (chỉ cõi Sa bà) đến phương Tây, cách xa mười vạn ức cõi Phật, có một thế giới gọi là Cực lạc, ở cõi đó có Đức Phật A Di Đà hiện nay đang thuyết pháp. Này ! Xá Lợi Phất, cõi kia vì sao gọi là Cực lạc?- Vì nhân dân trong nước ấy không còn mọi khổ đau,mà hoàn toàn vui sướng, nên gọi là Cực lạc”.

Dưới đây xin dẫn chứng những khám phá mới nhất về những thiên thể mà các nhà khoa học đã tìm ra ( theo tác giả) : “Nhà bác học Carl Sagan, giáo sư đại học đường Havard về môn Thiên văn học, đã lên tiếng trong một buổi nói chuyện tại hội Hỏa tiễn Mỹ” ông tin chắc có những giống người rất thông minh sống rải rác trên các hành tinh của chúng ta ở tinh đó tới thăm trái đất của ta. Ông Sagan còn cho hay : Ông đã căn cứ vào toán học mà đưa ra giả thuyết ít nhất phải có trên một triệu hành tinh trong số 100 tỷ hành tinh trong giải Ngân hà đã xuất hiên những nền văn minh rực rỡ, vượt xa hẳn nền văn minh của chúng ta ngày nay trên trái đất”.

Gần đây, khoa học gia Melvin Berger còn cho biết : những khám phá mới nhấtcủa Thiên văn học hiện đại : với những máy vô tuyến viễn vọng kính tối tân, loài người đã nhìn thấy thiên hà của chúng ta có chừng 150 tỷ ngôi sao, trong đó chừng một tỷ hành tinhcó thể có người sống- ngoài ra còn có hàng tỷ thiên hà tương tự như thiên hà của chúng ta ở, mà thiên hà gần nhất mệnh danh là Trôn ốc trong chòm Andromedo có những vì sao nhỏ bé, lờ mờ, cách xa chúng ta khoảng ngót triệu năm ánh sáng…Đó mới chỉ là những khám phá sơ khởi..”( BTD Trang 131,132) 

Chương 3. Thiền sư Hải Vân dạy phép “Quán Tưởng”

Sau khi nghe đồng tử Thiện Tài trình bày nguyện vọng, Thiền sư dạy:

“…Không thuận theo ngoại cảnh vui thích, thì tâm con không bị lôi cuốn bởi lục dục, thất tình- không bị mờ ám bởi hình, danh, sắc, tướng, làm cho mình bị say mê mà đánh mất cả lương tri, lương năng.

“Không nghịch theo ngoại cảnh đau buồn thì tâm con được ổn định, không còn thấy cảnh đời đáng chán ghét mà phải tìm cách xa lánh, ở ngoài vòng cương tỏa.

Vì không còn thuận nghịch, nên con ít sân hận, oán hờn, ít so sánh phân biệt, không còn đứng núi nọ trông núi kia cao…

Từ một tư tưởng ưa thích, lòng tham nổi dậy, lôi cuốn theo những tư tưởng chiếm đoạt, tranh chấp, đố kị, bủn xỉn, vị kỷ, bám giữ, vui, buồn…

Từ một tư tưởng ghét bỏ phát sinh những tư tưởng sân hận, mưu mô, xảo trá, lường gạt, loại trừ, để rồi gây nên những oán thù truyền kiếp. Cả hai loại tư tưởng yêu ghét đều làm cho tâm con mất thăng bằng, bình đẳngxa lìa Chân tính.

Con phải dùng đại dương làm bối cảnh để tập trung tinh thầnquán tưởng (suy ngẫm).

Đại dương sâu rộng, bát ngát, bao la, có vô lượng châu báu thì tâm đại bi cũng có vô lượng đức tính cao đẹp. Đại dương muôn trùng rộng rãi, thu nạp nước các sông ngòi, và những trận mưa to, thác lũ mà không hề tăng giảm thì tâm đại bi cũng chứa đựng mọi sầu não của chúng sinh và rửa sạch mọi vết thương lòng của muôn loài đau khổ mà vẫn như bất động, bình đẳng, vô phân biệt. Con phải mở rộng tầm mắt bao quát cả vũ trụ mông mênh, mở rộng tâm hồn cho vô biên cao cả, nhìn xa thấy rộng cảnh vật bên ngoài, rồi lại nhìn sâu vào đáy lòng mình để tìm hiểu chân lý của trời đất tiềm ẩn nơi đó. Vì Tâm tức Phật, Phật tức Tâm. Không thể tìm Phật hay sự thật ở đời, ngoài Tâm được. Với lý “Vạn vật đồng nhất thể” thì vũ trụ với con người chỉ là một mà thôi …
Con nên bắt chước ta, dành nhiều thì giờ cho công phu thiền địnhquán tưởng. (BTD, trang (155- 156 )

 Chương 4 – Trưởng lão Thiện Trụ dạy về pháp môn “Vô Ngại
Thần Túc Thông”.

Khi người ta đã đắc pháp này thì thân tâm được tự tại, vô ngại: “Trong một niệm (họ) tùy ý muốn đi đứng, tới lui chổ nào cũng được, trí tuệ thì quang minh đạt tới cứu cánh vô ngại, biết rõ các pháp quá khứ, hiện tạivị lai của mọi thế giới, biết rõ căn tínhngôn ngữ của mỗi loài, hiểu được sự cấu tạo, duy trìan lập của vũ trụ, la0I có thần lực bay tới tận các thế giới ở xa muôn dặm để quan sát, đồng thời có thể thị hiện, biến hóa ra mọi dự vật để cứu độ chúng sinh khắp mười phương”. (BTD ,trang 186)

Chương 5-Thượng tọa Di Già dạy đồng tử Thiện Tài “Trì chú
Đà la ni”

Đà la ni (Dharani), phiên âm từ tiếng Phạm, Tàu dịch: Tổng trì hay Năng trì, có nghĩa trong một chữ, một câu mà tóm thâu cả vô lượng công đức và thu hoạch những pháp lành, cùng gìn giữ một thiện duyên, bảo vệ những chủng tử tốt trong tiềm thức, đồng thời có nghĩa là Năng già : có sức che lấp những chủng tử xấu, ngăn chặn những niệm tưởng đen tối không cho hình thành.

Những Dharani hay chân ngôn rất đa dạng, mỗi bài có một công dụng khác nhau, sử dụng đúng qui cách thì đều linh ứng cả.

Chương 6 - Trưởng giả Giải thoát dạy : “Thiền” hay pháp môn
“Vô Ngại Trang nghiêm giải thoát”.

Trưởng giả khuyên Thiện Tài :

“Muốn thực hành Bồ tát hạnh ngươi phải phát đại nguyện, học đủ các pháp môn để tịnh Phật quốc, tập đủ mọi diệu hạnh để điều phục chúng sinh. Phật có đủ vô ngại thần thông để qua lại mười phương pháp giới, dùng trí tuệ vi tếthâm nhập vào các kiếp số. Phải giữ giới luật tinh nghiêm để gạn lọc tâm cho trong sạch. Phải dùng tinh tiến để kiên cố tự tâm, dùng nhẫ�n nhục để sang bằng mọi ý tưởng sai biệtphân biệt. Phải dùng từ bi để trị bệnh Tham, sân, ích kỷ, làm cho tâm được rộng rãi bao la. Phải năng quán tưởngthiền định để đắc tuệ nhãn, cho tâm được giải thoát và mau nhập cảnh giới nhất thiết trí, đạt tới Vô thượng bồ đề” (BTD, trang 270).

Thiền, là một pháp môn tu không cần đến văn tự, ngôn ngữ mà chủ trương “dĩ tâm truyền tâm”để giải phóng con người ra khỏi phiền nãothể nhập với thực tại tuyệt đối.

Người tu thiền chỉ ngồi yên lặng,gạt bỏ ra ngoài mọi tư tưởng và hình ảnh tốt xấu, nhờ đó mà gạn lọc được tâm hồn, để nó trở nên thanh tịnh. Đó là một phương pháp tập trung tinh thần để đạt tới trạng thái ý thức hoàn toàn sáng suốttrong sạch, tức thể nhập được Phật tính ở ngay trong bản tâm mình.

Tác giả luận giải về Thiền như sau:

? Môn đồ hỏi Mã Tổ Đạo Nhất:

Bạch Hòa thượng, vì sao nói: “tức tâm tức Phật?”

Sư đáp: Để cho trẻ con khỏi khóc.

Hỏi: Lúc trẻ đã nín rồi thì sao?

Đáp: Phi tâm, phi Phật.

Hỏi: Trừ hai câu này ra, nếu có người hỏi Phật nữa thì phải trả lời cách nào?

Đáp: Chẳng phải vật.

Hỏi: Nếu lại có người còn hỏi nữa thì phải trả lời sao?

Đáp: Thể nhập đại đạo.

Giải thích:

Câu thứ nhất: “tức tâm tức Phật”có ý khuyên nên hướng vào nội tâm để tìm cầu Phật nơi tâm mình, không nên hướng ngoại tìm cầu Phật tính.

Câu thứ hai: “phi tâm phi Phật” khuyên nên siêng năng tu hành. Hai phép này để giáo hóa hạng còn sơ cơ. Đối với hạng người tu đã lâu thì dạy: “chẳng phải vật” và “ thể nhập vào đại đạo” là muốn khuyên nên thoát ra ngoài vật để hòa đồng cùng vũ trụ. Tâm là vật, vật là tâm. Đạo phải tìm trong hiện tượng giới, trong chổ “bình thường tâm” (BTD, trang 203)

? Một đêm trăng ba vị Thiền sư ( Bách Trượng Hoài Hải, Tây Đường Trí TạngMã Tổ Đạo Nhất thưởng ngoạn.

Mã Tổ hỏi: “Lúc này ta nên làm gì?”

Tây Đường thưa: “Ta nên cúng dường” (ý muốn nói đến tụng kinh, niệm Phật”.

Bạch Trượng thưa: “Ta nên tu hành”( ý muốn nói đến công phu ngồi thiền).

Nam Tuyền lẳng lặng, chẳng nói một lời, phất tà áo bỏ đi ngắm trăng một mình.

Mã Tổ nói: “Tụng kinh mãi thì lạc vào rừng Tam tạng kinh điển, mà ngồi thiền thì chơi vơi chìm đắm trong biển lặng vô biên, Chỉ đi ngắm trăng như Nam Tuyền trong lúc này mới theo đúng đạo tự nhiên của trời đất, siêu việt ra ngoài cảnh vật. Thế mới gọi là “Tâm đạo bình thường” (BTD, trang 208)

Một đặc điểm khác của Thiền thuộc phương diện tu luyệnđốn ngộ tức là nhận rõ chân lý tức khắc, không cần phải qua những giai đoạn chuẩn bị học tập lâu dài. Một tỷ dụ điển hìnhvề đốn ngộtrường hợp Lục Tổ Huệ Năng. Ngài từ nhỏ đến khi ngộ đạo, không được học một chữ, kinh kệ không biết, nhân một buổi đi bán củi ngoài chợ, chợt nghe có tiếng người tụng kinh Kim Cương, câu:

“Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm: Nakvacit pratisthitam cittam utpàdayitaviam”, Ngài tự nhiên ngộ đạo. Thật là một trường hợp hy hữu, có một không hai. Có lần Tổ dạy các đệ tử cách giảng pháp phải căn cứ trên lập trường “Bất nhị”và Tổ lập luận : “Nếu có người hỏi về lẽ tối phải đáp: Sáng là nhân, tối là duyên. Sáng đi thì tối lại. Lấy tối để hiểu sáng, lấy sáng để hiểu tối, đôi bên qua lại đắp đổi làm nhân duyên cho nhau. Tất cả pháp, khi bàn đến, chớ lìa tự tính, và cứ mỗi câu hỏi đều đáp lại bằng cách trái ngược, như vậy thành nghĩa Trung Đạo mà chẳng bao giờ xa lìa chân lý”.( BTD, 171)

Thiền có mục đích:

- “Dẫn hành giả tới chổ giải thoát hay giác ngộ trực tiếp”.

- “Đề cao nếp sống tự nhiên, bình đẳng và yêu thiên nhiên”.

- “Diễn tả cái phong thái phóng khoán của thiền và cái cơ trí bén nhạy của trực giáct âm linh”.

Chương 7 và 42- Hòa thượng Hải Tràng và thần Bảo Nhãn, Quỷ vương La SátPhật mẫu Ma Ya dạy: “Pháp môn Lục Độ và Bát Nhã”

Hòa thượng nói: "Do tu Bát nhã Ba la mật (Prajinapàramità) mà tôi đắc tuệ nhãn và hàng ngàn tam muội khác. Lúc nhập tam muội này, tôi biết rõ tất cả thế giới không chút chướng ngại và thấy mọi sự vật trong vũ trụ đều dung thông, dung nhiếp với nhau. Tôi biết rằng cái tâm của mỗi người là cái tâm chung của trời đất và cái lý của mỗi sự vật là cái lý chung của vạn vật. Khi đã rõ được một phần tử trong vũ trụ, thì cũng rõ được sự vật trong đời đất. Đó là cái lý Một là Tất cả và Tất cả là Một – Tâm, Vật không hai "(BTD, trang 305)

Phật mẫu Ma Gia thì dạy: "Từ quá khứ đến vị lai, khắp thập phương thế giới, thử hỏi chư Phật và Bồ tát nào không do trí Bát nhã sinh ra? Và muốn thành Phật quả, thì người tu hành nào không phải học hỏi và tu theo pháp môn Bát nhã?" (BTD, trang 899)

Muốn chứng lý Bát nhã phải qua ba giai đoạn tu tập:

1..Gia Hạnh Trí Bát Nhã – Tăng gia công hạnh tu Bát nhã, tức phải tinh tiến tu hành các pháp môn quán tới chỗ nhận định rõ được thực tướng hay thể tính của các pháp vốn "Không".

2..Căn Bản Trí Bát Nhã- Tức thể tính Bát nhã. Tuy thể tính vốn sẵn có trong mọi chúng sinh, nhưng phải nhờ công phu tu hành tinh tiến mới phát huy và làm hiển lộ cái trí hay thể tính đó.

3..Hậu Đắc Trí Bát Nhã- Tức diệu dụng của Bát nhã. Sau khi chứng được căn bản mới có được diệu dụng này. Tới lúc đó thì: "Tâm vô quải ngại, xa lìa mộng tưởng, điên đảo, đạt tới cứu cánh niết bàn", và người tu biết rõ bản tính la chân, sắc tướng là giả, và phải lìa bỏ giả tướng mà quay về chân tính.

Tính, tướng bất nhị, hễ theo về chân tính thì phá vỡ ngay được chấp ngã, tức là những giả tướng bề ngoài.

Phát huy nguồn ánh sáng sẵn có trong mỗi chúng sinh (tức căn bản trí) bằng cách tu tập các pháp quán vô

"Tất cả phương pháp tu hành của Bát nhã nhằm vào tiêu điểm ngã, vô thường. Có được nguồn ánh sáng ấy (tức trí tuệ bát nhã) chiếu soi thì tâm được tự tại, hành giả sẽ sống trong thể tính chung của muôn loài và nhận thấy mình với chúng sinh là một, chúng sinh là mình, mình là chúng sinh, một là tất cả và tất cả là một, sự sự vô ngại trong pháp giới bao la, mọi sự mọi vật đều tương tức, tương nhập như kinh Hoa Nghiêm đã đề xướng" (BTD, trang 902)

Chương 8- Ưu bà di HữuXả dạy đồng tử Thiện Tài cách "diệt trừ phiền não", còn gọi là pháp môn "ly ưu an ổn tràng" (giải thoát cho tâm khỏi mọi phiền não ưu tư, được an vui thanh tịnh).

Vì mỗi chúng sinh đều có Hoặc, Nghiệp, Khổ khác nhau, sinh ra đủ loại phiền não.

"Nỗi đau khổ của loài người bắt nguồn từ vô minh, do những nguyên nhân chính là Ái, Thủ, Hữu. Vì ưa thích ham muốn nên mới bám giữ lấy cảnh vật chung quanh, làm sổ hữu riêng tư, và khi bị mất những vật mà ta ưa quí làm của riêng, coi như mất đi một phần thịt xương của mình thì sinh buồn phiền đau khổ"

"Những phiền não thô dễ biết nên dễ chữa. Chỉ những phiền não từ vô thủy rớt lại, ẩn sâu trong tiềm thức mới khó loại trừ,"Tất cả chúng ta đang sống trong chiêm bao, do vô minh dệt thành màn sương dầy đặc vây phủ quanh mình, nên lúc nào cũng say sưa trong đại mộng. Phải thức tỉnh hẳn mới hay mình vừa mới trải qua một giấc mộng dài. Chúng sinh đang sống trong vô minh vọng thức, nào có hay đâu mình sống trong cảnh đó; chỉ khi nào hoàn toàn giác ngộ mới biết rõ được cảnh vô minh vọng thức mình vừa trải qua.

"Hàng phàm phu sống trong vòng thức biến nên không rõ được cảnh thức biến. Chỉ khi nào tới Phật quả cứu cánh mới phá tan vô minh trong tâm thức, và chỉ lúc đó mới thực giác ngộ hoàn toàn, cũng như người tỉnh hẳn giấc mộng dài, hết ngái ngủ, mới biết được rằng mọi chuyện vừa xảy ra trong giấc mộng đều là huyễn cả".( BTD, trang 320-321)

Chương 9. Nói về Pháp môn "Bồ tát Vô Thắng Tràng Giải ơn

Thoát"do tiên ông Tỳ Mục Cù Sa truyền lại cho Thiện Tài.

Nói xong, tiên ông liền cầm tay xoa đầu Thiện Tài tức thì chàng trông thấy vi trần số thế giới, lại được nghe chư Phật thuyết pháp cho hằng hà sa số chúng sinh trong khắp các cõi, nhờ đó mà Thiện Tài được vô lượng tam muộitrí tuệ quang minh. Nhưng đến khi tiên ông vừa buông tay ra thì Thiện Tài thấy mình trở về trạng thái như cũ.

Kế đó, Tỳ Mục Cù Sa lại bảo thiện Tài: "Tôi chỉ biết bấy nhiêu pháp đó thôi, nếu muốn công hạnh được viên mãn, hãy tìm đến vị Bà la môn, pháp danh là thắng Nhiệt, ở bộ lạc Y Sa Na, về phương nam, mà học hỏi thêm".

( Tác giả đã bình giải về những ẩn ý của một vài danh từ dùng trong kinh:

"Việc tiên ông Cù Sa xoa đầu và cầm tay Thiện Tài là cốt dùng tha lực giúp cho chàng định tâm, kiểu như dùng phương pháp thôi miên, tập trung tinh thần buộc Thiện Tài phải quán tưởng hay suy nghĩ về một đề tài nào đó. Đến khi tiên ông buông tay và không còn xoa đầu Thiện Tài nữa là lúc Thiện Tài xuất định, tâm thần trở lại như cũ.

"Tên của vị Bà la môn Thắng Nhiệt cũng gợi cho ta ý tưởng sau đây: ba độc tham, sân, si, và thất tình, lục dục gây cho chúng sinh những nổi khổ đau như lửa đốt tâm can.

"Thắng được tam độc ấy tức là dập tắt được ngọn lửa làm cho chúng sinh phải chịu đau đớn ê chề" ( BTD,trang 340-341 )

Chương 10. Bà la môn Thắng Nhiệt dạy về: "Bồ Tát Hạnh Bồ Tát Vô Tận Luân Giải Thoát"( tức: bánh xe giải thoát quây vô tận).

Bồ táttiếng gọi tắt, viết đủ là: Bồ đề tát đóa, do phiên âm ở chữ Bodhisattva: Bodhi (Bồ đề) co nghĩa là giác ngộ và Sattva (tát đóa) là chúng sinh. Vậy bồ tátchúng sinh đã giác ngộ. Bồ tát có ba đặc tính:

� 1. Tuy đã giác ngộ nhưng chưa hoàn toàn được như Phật. Vì chưa gột sạch vi tế vô minh, vẫn cố gắng tu hành để viên thành Phật quả (tự � giác, tự độ)

2. Đã giác ngộ rồi nhưng có nguyện vọng khai ngộ cho toàn thể chúng sinh còn bị vô minh ám chướng (giác tha, độ tha)

3. Thực hiện lý tưởng: "thượng cầu giác ngộ, hạ hóa chúng sinh", lấy đó làm lẽ sống của mình.

Tính cách thứ nhất thiên về Trí.

Tính cách thứ hai thiên về Bi.

Tính cách thứ ba gồm cả Bi lẫn Trí.

Bởi vậy, Bồ tát còn có tên gọi là bậc Đại Sĩ hay Khất Sĩ nữa.

Về phương diện thực hành Bồ Tát Đạo là sáu pháp Ba la mật (Paramita). Ba la mật có nghĩa làtừ bờ bên này (mê) vượt qua bờ bên kia (ngộ): 1. Thí, 2. Giới, 3. Nhẫn, 4. Tính tiến, 5. Thiền, 6. Tuệ, cộng với:7. Phương tiện, 8. Thệ nguyện, 9. Lực, 10. Trí, gọi là 10 Ba la mật và làm muôn hạnh lànhlợi ích cho hết thảy chúng sinh.

"Điểm đặc sắc nhất của đạo Bồ tát là trong khi hướng vào cảnh giới

tự chủ của tinh thần mà vẫn không trốn tránh những nổi thống khổ cố hữu của kiếp người, trái lại, vẫn lấy "khổ đế", đế thứ nhất trong "tứ đế" làm trung tâmcơ duyên hành đạo. Vì Bồ tát nghĩ rằng: "nỗi khổ đau của chúng sinh là nổi khổ đau của mình"

"Bồ tát coi sự khổ đau lẫn vui sướng, luôn luôn tự chủ. Chính ở đây mà người hành đạo thấy rõ ý nghĩagiá trị của đời chỉ có hứng thú nhờ ở sự tích cực phục vụ cho đời: đó là đặc chất căn bản của tinh thần bậc siêu nhân"(BTD, trang 365-366)

Chương 11, 12 –Đồng nữ Từ Hạnh dạy môn "Bát Nhã Phổ

Trang Nghiêm"và Tỳ khưu Thiện Kiến dạy môn "Bồ Tát Tùy Thuận Đăng Giải Thoát"(tức là ngọn đèn trí tuệ của Bồ tát muốn soi tới đâu cũng được).

Nói chung, cả hai vị đều dạy Thiện Tài: "Pháp môn Bát Nhã"tức thuyết minh về chân lý "Không" ( Sùnỳatà ). Ta hãy nghe tác giả luận về nghĩa chữ "Không".

"Theo lý duyên khởi thì mọi vật trong vũ trụ chỉ là những hợp tướng tạm thời của nhiều nguyên tử duyên lại với nhau. Khi duyên hết thì hợp tướng lìa tan. Đó cũng là định luật vô ngã, vô thường của sự sự, vật vậtở cõi đời này. "Vật chất có thể biến thành năng lựcnăng lực cũng có thể biến thành vật chất"Từ vật chất biến thành năng lực, không còn là vật chất nữa, thì bản thể của vật chất là "Không". Do đó, câu "Sắc tức thị không, không tức thị sắc"đồng nghĩa với câu : "vật chất tức năng lực, năng lực tức vật chất". Tất cả những gì do vật chấttinh thần hợp lại mà cấu thành đều là "Không" cả. Cái "Có"(ngũ uẩn hay danh sắc – Tâm và Vật) do cái "Không" mà ra, thì "Không"là căn bản, nguồn gốc, bản thể của cái "Có�". Phật giáo đại thừa cho rằng: Vạn vật có hai tướng, một tướng bề ngoài và một tướng bề trong. Cái tướng bề ngoài ta có thể dùng ngũ quaný thức (giác quan thứ 6) mà xét thấy được. Nhưng bên trong những cái vỏ sai biệt của hình tướng bề ngoài còn có một cái Thể chung (Bản thể hay Thực tướng) của muôn loài, vạ�n vật. Cái thực tướng đó là "Không". Không sinh diệt, không nhơ sạch, không thêm bớt, không biết từ đâu đến và đi về đâu, không biết giờ khởi điểm hay lúc tận cùng…. . Hiểu thấu được nguyên lý duyên sinh là đạt tới thực tại tối hậu, tới, "Chân không diệu hữu", tới tuệ bát nhã, không còn phải tranh luận hão huyền nữa. Ta thấy rằng:

  • Vô thường tức là không có những thực thể bất biến trong thời gian.
  • Vô ngã tức là không có những thực thể bất biến trong không gian.

Chân lý "Không" có hiệu lực phá trừ kiến chấp.

Vậy, vô thường tức vô ngã, tức duyên sinh, tức "Không " (BTD ,trang390- 391)

Và thế kỷ I I dương lịch, Bồ tát Long thụ (Nàgàrjuna) hệ thống hóa tư tưởng Bát Nhã và trứ tác các bộ : Trung Luận, Thập Nhị Môn Luận, Đại Trí Độ Luận, làm rường cột cho "Không tông Bát Nhã".

Phương pháp của Tam Luận Tông (Madhyamika) là chứng minh tính cách bất lực của các khái niệm căn bản của trí óc con người sống trong tương đối. Đây cũng là một phương pháp để chứng minh yếu nghĩa chữ "Không" của Bát Nhã. Điểm quan trọng cần phải lưu ý : Phương pháp của Tam luận tông không phải là một trò chơi về chữ nghĩa, bởi vì Tam luận tông có một chủ đích rõ ràng, làm vô hiệu hóa các khái niệm đã ngăn cản trí óc con người đạt tới thực tại siêu việt: Mục đích của Tam luận tông không phải là đưa ra một quan điểm mới để phá đổ một quan điểm cũ, bởi vì theo Tam luận tông thì mọi quan điểm đều sai lầm, thiếu sót, và lý do rất giản dị là quan điểm chẳng phải là chân lý. Cho nên Tam luận tông chỉ là một phương pháp mà không là thực tại, cũng không phải là sự diễn tả �chân lý tối cao. (BTD ,trang…).
Mở đầu bộ Trung luận, phẩm Quán Nhân Duyên I, Bồ tát Long Thụ đưa ra tám cái "không"( Bát Bất) :

"Bất sinh, diệc bất diệt.
Bất thường, diệc bất đoạn.
Bất nhất, diệc bất dị.
Bất lai, diệc bất xuất."

Nguyên bản chữ Phạm:

"Anirodham anutpàdam.
Annucckedam asàsvatam.
Anekàrtham ananàr tham.
Anàgamam anirgamam."

Theo thuyết "Bát Bất" trên đây, ta thấy: Vạn pháp do các nhân duyên hội ngộ mà sinh, nên gọi là "bất sinh". Khi nhân duyên tán thì vạn pháp phải hủy diệt; nhưng đã không có sinh thì làm gì có diệt, vì thế gọi là "bất diệt". Và vạn pháp đã do nhân duyên sinh tất nhiên không tránh được sự đổi thay, gọi là "bất thường". Vì vạn pháp không thật cho nên cũng chẳng có gì là đoạn, nên gọi là "bất đoạn". Vạn pháp sinh khởi chẳng giống nhau, như mộng mạ và cây lúa không phải là một, nên gọi là "� bất nhất". Nhưng cây lúa lại do mộng mạ mà thành, nên gọi là "bất dị". Vạn pháp vốn không thật có nên gọi là "bất lai, bất xuất".

Theo quan niệm mê chấp thường tình của thế gian, người ta cho rằng vạn pháp có sinh, có diệt, có thường, có đoạn, có một, có khác, có lại, có đi…

Vì muốn khai thị cho thế nhânnên Bồ tát Long thụ đã dùng tám thứ không là : không sinh, không diệt, không thường, không đoạn, không một, không khác, không lại, không đi, để đã phá những nhận thức sai lầm của thế tục, tức phá bỏ triệt để chấp tướng, chứ không phải phủ nhận cái Thực tướng Vô tướng của các pháp. Đấy là lối dùng Không môn để đi vào thực tướng Trung Đạo vậy.

Biện chứng pháp của Bồ tát Long Thụ là một phương tiện để đánh đổ các khái niệm mà không để cho người ta bị kẹt vàokhái niệm đối lập, vì thế mới gọi là Trung Đạo, nghĩa là siêu lên khỏi thế giới khái niệm có niệm đối lập, vì thế mới gọi là Trung Đạo, nghĩa là siêu lên khỏi thế giới khái niệm có và không, sinh và diệt,v.v..

"Biện chứng pháp này còn được diễn tả bằng nguyên tắc chân đế (paramartha – satya) hay chân lý tuyệt đối so với tục đế (samvriti- satya) là chân lý tương đối" (BTD, trang 403)

Nền tảng biện chứng pháp của Bồ tát Long Thụ là nguyên lý nhân duyên, và ngay trên đó, ta đã thấy triết lý "Không" đưa tới chân lý Trung Đạo "Madhyamà Pratipadà":

"Nhân duyên sở sinh pháp
Ngã thuyết tức thị Không
Diệc Danh vi Giả danh
Thị danh Trung đạo nghĩa"

Dù Phật hay các vị Bồ tátxuất hiện ở đời này hay không, để tuyên bố hay không tuyên bố rằng các pháp là "Không", thì tự tính của chúng cũng vẫn như thế, vì bản tính của các pháp vẫn "như thế".

(Pháp nhĩ như thị: Dharmata). Lập thuyết của Tam Luận tông về chữ "Không"dẫn tới chân lý "trùng trùng duyên khởi" và "Một là Tất cả", "Tất cả là Một", Sự sự vô ngại pháp giới của tông phái Hoa Nghiêm.."

Chương 13, 22, 44 –Đồng tử Tự Tại Chủ, trưởng giả Ưu Bát La
Hoa, đồng tử Biến Hữu và đồng tử Biến Tri dạy "Pháp môn Ngũ Minh".

Đồng tử Thiện Tài hình dung trong đầu óc Tự Tại Chủ hẳn là một người đứng tuổi, từng trải việc đời, ngờ đâu lại chỉ thấy một niênđang chơi đùa với một số đồng tử khác, trên đường cát ven sông . Thiện Tài cung kính chắp tay vái chàotỏ bày nguyện vọng.

Tự Tại Chủ đáp: "Thuở nhỏ, nhờ được học đủ các ngành công, kỹ nghệ nên nghề gì tôi cũng biết qua. Tôi còn học đủ các môn khoa học thường thức, biết trị bệnh và bào chế linh dược. Tôi lại biết các kiến thiết những cung điện nguy nga, và kinh doanh về các ngành nông, công, thương, làm lợc ích cho hằng hà sa số chúng sinh. Ngoài ra, tôi còn biết được tướng mạoam tường tâm lý của loài người, biết rõ tính tình của kẻ lành, dữ, hiểu rõ rồi đây se �phải sinh vào đường thiện hay ác…Tôi còn theo môn toán học, biết rõ trong đống cát này có bao nhiêu hạt cát, biết được danh hiệu của chư Phật khắp pháp giới mười phương. (BTD , trang 409 – 410)

Thiện Tài thấy Tự Tại Chủ thật là một nhân vật kỳ tài, nên quyết tăm noi gương về mọi ngành, nghề và có được nhiều phương tiện để giúp đở mọi người…

Muốn thực hành hạnh lợi thagiác tha, Bồ Tát phải:

* Có trí sáng suốtthực tế,

* Có tâm bi, bình đẳng, vô lượng vô biên,

* Có lòng hăng hái dũng cảm phi thường để thắng những trận giặc nội tâmđiều phục những kẻ thù là những ác tưởng chỉ lăm le làm cho tâm mình hèn yếu, nhút nhát, biếng lười…

* Ngoài những đức tính trên, Bồ tát còn cần học đủ sáng suốt năm món (Ngũ minh) là điều kiện tối cần thiết cho sự thành đạt, để thực thi tốt nguyện vọng của mình.

* Trong kinh Hoa Nghiêm có đoạn ghi: "Bồ Tát cầu đạo giác ngộ ở đâu? – Phải vào ngũ minh mới cầu đạo được".

Ngũ Minh là :

  1. Nội minh: môn học về giáo lý.
  2. Nhân minh : môn học về cách suy luận, biện giải để tìm chân lý,
  3. Thanh minh : môn học về sinh ngữ để các dân tộc có thể hiểu nhau.
  4. . Y phương minh : môn học về cách thức chữa trị bệnh nhân.
  5. Công xảo minh: môn học về kỹ nghệ trong các ngành cho được tinh xảo.

Với pháp ngũ minh được trao giồi kỹ lưỡng, Bồ tát trở thành những chiến sĩ từ thiện lo xây đắp hạnh phúc cho toàn thể chúng sinh, và chuyển biến thế giới đau khổ này thành cõi Niết Bàn, an lạc.

Chương 14 – 15- Ưu bà di Cụ Túccư sĩ minh Trí dạy pháp Môn : "Bố Thí Ba la mật"

Bố thí (Dàna) gồm có 3:

1.Tài thí: là đem tiền của, vật thực cho đến cả sinh mệnh của mình ban cho kẻ khác, Tài thí chia làm nội tài là hy sinh, mắt, tai, máu, thịt, thân mệnh mình cho chúng sinh. Ngoài tài là đem tiền của, báu vật, xe cộ, nhà cửa, vật dụng cho kẻ khác, miễn là cứu giúp được cho chúng sinh thoát khổ, được vui.

2.Pháp thí : Là đem giáo lý của Phật ban phát, giảng dạy cho người đời từ bỏ được lòng tham, ích kỷ đến tận gốc rễ. Pháp của Phật là những liều thuốc chữa tâm bệnh cho chúng sinh hết mọi khổ đau phiền não. Pháp thí chia làm khẩu giáo và thân giáo.

Khẩu giáo: là đem lời hay, lẽ phải, những pháp tu chân chính để dạy dân chúng khiến họ đạt được lẽ cao siêu mầu nhiệm của đạo Giác Ngộ, Giải Thoát, đó là chính ngữ.

Thân giáo: có khi chẳng cần phải đăng đàn thuyết pháp, hoặc trứ tác, lập ngôn cũng gọi là pháp thí, vì Bồ tát "hành bất ngôn chi giáo"

Đem gương sáng cả một đời sống đạo đức tràn đầy từ, bi, hỉ, xả, tinh tiến, nhẫn nhục, v.v.. để cảm hóa lòng người, đó là hạnh tu cao tột của chính mệnh, chính nghiệp. Lối thân giáo pháp thí đó công đức chắc chắn nhiều hơn lời giảng đạo lý suông mà chính bản thân người giảng không làm đúng theo như lời giảng.

3. Vô Úy Thí : Có phúc đức, trí tuệ vẫn chưa đủ. Nếu không luyện cho tâm được vững vàng để có thể đối phó với mọi mối nguy hiểm xảy đến. Bởi vậy, người tu cần phải tạo cho mình một cái tâm bình tĩnh trước mọi đe dọa, thử thách, mà lòng không khiếp sợ hay rối bời, để làm chổ tựa nương vững chắc cho mọi người chung quanh. Gây niềm tinh tưởng an tâm là ban bố sự vô úy cho chúng sinh được nhờ cậy. Ban cho người khác cái không sợ hãi là làm cho chúng sinh được vững dạ làm ăn sinh sống…

"Thấy kẻ hỏi xin rồi mới mở túi tiền, hoặc cho mà còn theo thời giankhông gian đã ấn định, hay bố thísợ hãi, vì lợi lộc, vì tiếng khen hoặc vì đổi chác, thì chẳng phải là lối bố thí "Ba la mật". (BTD,trang 429)

Những chương dưới đây thuộc pháp môn "Tứ Vô Lượng Tâm".

  • Chương 16, Trưởng giả Pháp BảoKế dạy về "Tâm Bi"
  • Chương 17, Trưởng giả Phổ Nhãn dạy về lý "Chân Không".
  • Chương 18, Vua Vô Yếm Túc dạy "Tâm Xả".
  • Chương 19, Vua Đại Quang dạy "Tâm Từ".
  • Chương 21, Ngoại đạo Biến Hành dạy "Tâm Hỉ".

Tứ Vô Lượng Tâm.

1.Từ (Maitri) là tình thương yêu bao la, ban hạnh phúc an vui cho hết thảy chúng sinh trong ba cõi.

Người có tâm Từ không oán giận kẻ đã gieo họa và gây đau thương tan tóc cho mình, và không hề nghĩ đến sự trả thù, làm hại hoặc bài xích, bôi nhọ, làm giảm giá trị hay dìm kẻ khác, nên không bao giờ sợ ai, cũng không làm cho ai sợ mình.

2. Bi (Karuna) là lòng thương vô lượng, là tâm rung động trước những cảnh đau thương của chúng sinh, và quyết chí xoa dịudập tắt những ngọn lửa khổ đau nung nấu tâm can của nhân loại. Người có tâm Bi sẵn sàng quên mình, chịu sự thiệt thòi, không chỉ sống cho mình, mà còm sống cho kẻ khác, quyết không nhìn nhận uy lực của một người nào có quyền sát hại hay làm khổ kẻ khác,…

  • Dối tượng của Bi là những khổ đau.
  • Đối tượng của trí rộng rãi hơn, bao gồm cả vui lẩn buồn khổ.

3. Hỷ (Mudita) có nghĩa là vui theo (tùy hỉ) niềm vui của kẻ khác, và đức tính cao thượng đứng hàng thứ ba trong Tứ vô lượng tâm. Hỷ, không phải là trạng thái thỏa thích suông, cũng không phải là cảm tình riêng đối với cá nhân nào. Hỷ là lòng vui thích trước sự thành công của mọi người, là lòng thành thực chung vui, góp mừng và ngợi khen người khác. Ganh tị là kẻ thù số một của tâm hỷ, và hỷ là sự mừng vui như ngọn lửa là thiêu hủy ganh ghét, đố kỵ…

4. Xả (Upeksà) là tâm xa lìa, không luyến ái, không bám giữ, không oán giận, ghét bỏ, cũng không ưa thích say mê, nhưng xả cũng không có ý nghĩavô ký (avyàkrta), lãnh đạm, lạnh lùng, không màng thế sự, mà chỉ là lìa bỏ mọi chấp trược, dứt hẳn lòng tham lam, bủn xỉn, sân hận, oán thù, si mê, kiêu căng, tật đố, ngã mạn, lười biếng…. trong tâm ta.

Cuộc đời còn đau khổ, tối tăm, thì Bồ tát còn thị hiện ở đời (bằng mọi cách) quyết thực thi bốn pháp "Từ bi Hỷ Xả" để làm lợi ích cho chúng sinh.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29901)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27182)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21773)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22238)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23615)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20433)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20056)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21951)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24760)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18995)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24772)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30988)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23996)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27766)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26530)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21330)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23233)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38145)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18807)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18439)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19991)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19054)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23176)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23894)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22822)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22929)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29593)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20649)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18716)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15851)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18865)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19692)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20161)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19958)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18130)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22954)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34186)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16426)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16925)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39270)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26084)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20107)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18864)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24074)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29155)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22906)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30970)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21016)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26862)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20679)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26270)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23347)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19825)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24691)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30049)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20232)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20412)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15148)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15843)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23915)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant