Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

12 Phẩm Như Lai Thọ Lượng

26 Tháng Năm 201000:00(Xem: 6758)
12 Phẩm Như Lai Thọ Lượng

ĐỀ CƯƠNG KINH PHÁP HOA
Hoà Thượng Thích Nhật Quang
Thiền Viện Thường Chiếu

 

Phẩm Như Lai Thọ Lượng

CHÁNH VĂN

Phẩm Thọ Lượngtiêu biểu cho pháp thân chân thể, xưa nay trong sạch, chẳng sanh chẳng diệt, sống lâu chẳng thể nghĩ bàn. Người tu hành, nên thích thú tinh thần này, đồng thời phát tâm Bồ-đề, mong cầu được chứng. Nếu người chỉ được nghe Phật sống lâu chẳng thể nghĩ bàn, một lòng tin nhận, thì người ấy được trí tuệ chẳng thể nghĩ bàn, đời tương lai ắt chứng được “sống lâu chẳng thể nghĩ bàn” như thế. Bởi hiển bày thức tâm sanh diệt đã diệt, thì chân tâm tịch diệt chẳng sanh chẳng diệt hiện tiền. Kinh nói: “Này thiện nam tử, các ông nên tin hiểu lời nói chắc thật của Như Lai”. Phật bảo ba lần như thế.

Khi đó, trong chúng đại Bồ-tát, ngài Di Lặc làm thượng thủ, đồng chấp tay bạch Phật: “Bạch đức Thế Tôn, cúi xin ngài nói, bọn chúng con sẽ tin lời của ngài”. Bạch rõ ba lần như vậy.

Nay kẻ tối hạ bần tiện Giác Đạo Tuân này, xin cuối đầu qui mạng lễ. 

GIẢNG

Phẩm Thọ Lượng là nói về tuổi thọ của Pháp thân Phật. Phẩm Thọ Lượng tiêu biểu cho pháp thân chân thể, xưa nay trong sạch, chẳng sanh chẳng diệt sống lâu chẳng thể nghĩ bàn. Thể tánh trùm khắp, tuổi thọ vô cùng. Chúng ta không thể dùng con số hay ví dụ để tính tuổi thọ của pháp thân. Vì nó vượt ngoài không gian, thời gian, vượt ngoài mọi hạn lượng.

Người tu hành, nên thích thú tinh thần này, đồng thời phát tâm Bồ-đề, mong cầu được chứng. Người tu hành nếu chỉ sống trên hiện tượng giới hạn thì sẽ không phát huy được chỗ chân thật không hình tướng, không sanh diệt. Tâm thể vô hạn, các hiện tướng hiện cảnh hữu hạn. Vì vô hạn nên không có gì trói buộc, còn cái hữu hạn dễ vướng mắc, ràng buộc, nhưng lại luôn biến đổi, có đó rồi không đó. Tạo ra khó khổ mà cũng không bảo quản được mãi mãi. Ví dụ như thân chúng ta, từ ngày sinh ra cho tới già chết, muốn bảo trì viên mãn trọn vẹn, không phải là điều dễ dàng.

Cho nên nhìn vào cuộc đời, không có gì bền vững. Kẻ giàu, người nghèo, tất cả đều vô thường. Mạng căn và phước duyên mỗi người khác nhau, song tất cả đều nằm trong điều kiện giới hạn, rất khó gìn giữ. Vậy nên cần cầu thoát ly, bỏ thân huyễn giả để trở về sống với thân chân thật. Điều này đòi hỏi chúng ta phải dứt khoát, mới có thể khắc phục được tập nghiệp của mình, dần dần ra khỏi trần lao sanh tử. Ví dụ khuya hôm nay, đại chúng đều tinh tấn lên Thiền đường ngồi ngay ngắn, nghiêm chỉnh tọa thiền. Riêng mình lại gật gù rồi bỏ cuộc, đi làm việc khác. Đây chính là hiện tượng không cố gắng, không làm chủ được, để nghiệp lực đẩy mình đi xa. Ở trong tập thể mà không dính dáng gì với tập thể. Từ một giờ một ngày, rồi nhiều giờ nhiều ngày như thế, thân xác mình sống ở đây nhưng tinh thần ở chỗ khác. Đó là hiện tượng của sự thoái hóa, cần phải chỉnh đốn ngay lập tức. Nếu không chúng ta sẽ khó giữ được tâm Bồ-đề.

Thân chúng ta trải qua từng chặng. Hai mươi đến ba mươi tuổi, ba mươi đến bốn mươi tuổi, bốn mươi đến năm mươi tuổi, năm mươi đến sáu mươi tuổi. Nếu ở thập kỷ hai mươi ba mươi tuổi, mình không tập làm chủ thì đừng nói tới thập kỷ năm mươi sáu mươi. Vì đến thập kỷ sáu mươi, chúng ta chỉ tạm dùng thân này với hình thức bên ngoài, chớ tinh thần đã suy yếu, không còn mẫn tiệp hay mạnh mẽ như lúc trẻ nữa. Đến giai đoạn này muốn hạ thủ công phu cũng không hạ thủ nổi. Do đó làm sao anh em phải vào nề nếp, nhất là hoàn chỉnh công phu trước thập kỷ ba mươi bốn mươi. Tiền nợ cơm áo không phải là chuyện đơn giản. Cho nên chúng ta phải cố gắng tỉnh sáng trước khi đối đầu với Diêm vương

Chúng ta phải biết thương mình. Biết thương mình thì đừng để nợ nần vây bủa. Cho nên ngay bây giờ phải thực tâm nghĩ đến việc chính của mình. Nói đến tuổi thọ của Phật là nói đến tâm thể của chúng ta. Việc tu tập hay làm các thiện sự chỉ là phát huy hình thức bên ngoài, đó chỉ là những phúc vụn, những cái tầm thường thôi. So với công phu của đức Phật trong khoảng chưa thành chánh giác, chúng ta không được tí xíu nào cả. Từ khi ngài đổi chiếc y với người thợ săn, lang thang trong rừng khổ hạnh, học pháp và chứng các tầng thiền định. Thân thể suy cùng đến tột độ… Chúng ta chưa có gì để bì được, sáng tới bữa ăn, trưa lại một bữa ăn nữa, ăn trưa chưa vơi thì lại tới bữa ăn chiều. Tối đến ngủ gà ngủ gật, sáng ra lại dể duôi, chưa dứt khoát việc tu hành. Thử hỏi bao giờ thành Phật đây?

Học thì chúng ta cũng học, hiểu cũng có hiểu, nhưng phần áp dụng còn lơi lỏng. Bởi lơi lỏng nên cuộc sống hằng ngày bị bức xúc, tinh thần không an ổn, việc tu không tiến. Người xưa khi xét thấy công phu chưa tiến là trầm thống vô cùng. Còn chúng ta bây giờ thấy bình thường thôi, không cảm nhận đau xót trong lòng chút nào cả. Do đó mình tu không tới đâu hết. Các vị ngày xưa nói do công phu không miên mật nên mới ngủ gục. Nếu chúng ta có bệnh này phải khắc trị ngay, không để như vậy đến hết cuộc đời mình. Đừng bao giờ mê muội như thế. Thời gian thuận lợi chỉ đến với chúng ta trong một giai đoạn nào thôi, rất giới hạn. Vì vậy chúng ta tranh thủ giải quyết cho xong việc của mình, không thể xem thường.

Ngài Từ Minh ở chỗ thiền sư Thiện Chiêu, những phút giây tâm miên mật không liên tục, ngài dùng dùi nhọn để trong lửa đỏ và đâm vào bắp đùi mình. Người xưa tự kỷ luật nghiêm khắc như vậy. Những tấm gương này nếu chúng ta không được học, không noi theo thì không thể tu tiến. Cho nên các huynh đệ ý thức đến yếu tố miên mật trong công phu. Miên mật có nghĩa là liên tục. Tổ sư đã từng nói, nếu tâm ban đầu giữ được liên tục lâu dài thì việc tu thành Phậtchắc chắn thôi. Mỗi huynh đệ phải tự kiện toàn lấy mình. Kiện toàn giới đức, kiện toàn định lực, kiện toàn trí tuệ. Chúng ta phải tự ý thức mình là người tu, không thể chứa chất ma mị trong tâm. Khi bản thân mỗi cá nhân tốt thì tập thể cũng sẽ tốt, toàn đạo tràng tốt theo.

Tuổi thọ của Như Laivô lượng vô biên, không gì có thể tính kể. Cho nên tất cả thế gian này tập trung trí lực như ngài Xá Lợi Phất lại cũng không thể nghĩ bàn chỗ đó. Đó cũng chính là tâm thể của chúng ta, tuổi thọ của chúng ta. Còn tuổi thọ vài ba chục năm của thân cha mẹ sanh đây không có gì đáng nói cả. Vì vậy cho nên các Thiền sư nói khi bỏ thân này như cởi được chiếc áo mùa hạ, như đắp chiếc chăn mùa đông, rất là nhẹ nhàng, không có gì đáng sợ hãi cả.

Khi đó, trong chúng đại Bồ-tát, ngài Di Lặc làm thượng thủ, đồng chấp tay bạch Phật: “Bạch đức Thế Tôn, cúi xin ngài nói, bọn chúng con sẽ tin lời của ngài”. Bạch rõ ba lần như vậy. Các vị Bồ-tát vô lượng vô biên từ dưới đất vọt lên mà Phật nói là con của Phật. Các vị này đã tu vô lượng vô biên kiếp. Chuyện này các đại Bồ-tát thượng thủ không hiểu nổi. Do đó Phật liền nói tuổi thọ của ta vô lượng vô biên, nên mới độ vô lượng vô biên các vị Bồ-tát. Phẩm này nói đến pháp thể và lực dụng của Như Lai. Công đức của pháp thể là như thế. Vinh dự lớn lao nhất là tất cả chúng ta đều đầy đủ pháp thể. Bây giờ muốn nó hiện tiền thì đừng để vọng tưởng kéo lôi.

Nói trở lại pháp tu của chúng ta, với các dấy niệm mình không dể duôi, không bị dẫn bởi cảnh, bởi tâm vọng tưởng. Sống tỉnh sáng, làm chủ được tất cả cảnh duyên, dần dần pháp thể sẽ hiện tiền.

CHÁNH VĂN

Kệ rằng:

Nghe rồi xoay thấy chủ nhân ông,
Mới rõ tu chân chẳng dụng công,
Hay chuyển pháp luân, trần số chúng,
Quay về giác đạo, tịnh tâm đồng,
Được nghe Phật thọ lâu xa tít,
Phước lớn nhân duyên bằng thái không,
Tạo tác cúng dường, công hữu lậu,
Suy lường thọ mạng, đức vô song.

GIẢNG

Bài kệ này diễn tả pháp thân vô cùng vô tận. Chúng ta nhận được chủ nhân ông là do chỗ chân dụng công. Phần tự lợi lợi tha đầy đủ, độ tận chúng sanh, công đức không thể nghĩ lường. Đem hư không thênh thang rộng lớn không bờ mé ví với cái đó cũng không bì được. Cho nên lấy công đức hữu lậu suy lường với thọ mạng vô lượng của Như Lai, trọn không chút dính dáng. Hữu lậu thì hữu cùng, hữu sinh thì hữu diệt. Chân tánh pháp thân vô cùng vô tận, không sanh không diệt. Tánh giác là gì và làm sao sống được với tánh giác là phần của mỗi chúng ta

Con đường thẳng tắt đến với tánh giác vẫn là không theo dấy niệm vọng tưởng. Ngay đây đã có định tuệ. Pháp tu như vậy, chúng ta phải nắm vững và thực hành cho đến nơi đến chốn. Khi mình đã tin nhận, đã có công phu thì dù vật đổi sao dời mình cũng bình an, hằng sống như thế. Thế nên tôi mong mỏi chư huynh đệ kịp nhận ra việc chính của mình, tha thiết thương mình. Nên nhớ chỉ có mình giải quyết cho mình, không ai thay thế được. Mỗi chúng ta tự vươn lên, tự gầy dựng cho mình sự nghiệp giác ngộ giải thoát

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29884)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27169)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21763)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22225)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23602)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20423)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20047)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21945)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24738)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18983)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24736)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30970)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23977)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27758)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26505)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21299)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23212)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38118)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18799)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18430)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19949)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19037)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23143)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23867)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22784)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22905)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29560)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20633)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18707)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15845)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18845)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19646)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20148)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19949)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18111)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22916)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34161)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16409)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16915)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39233)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26052)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20094)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18844)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24050)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29108)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22899)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30941)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 20998)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26849)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20670)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26248)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23318)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19815)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24668)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30023)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20214)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20400)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15142)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15825)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23866)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant