Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

06 Phẩm Dược Thảo DụHóa Thành Dụ

26 Tháng Năm 201000:00(Xem: 6687)
06 Phẩm Dược Thảo Dụ Và Hóa Thành Dụ

ĐỀ CƯƠNG KINH PHÁP HOA
Hoà Thượng Thích Nhật Quang
Thiền Viện Thường Chiếu

 

Phẩm Dược Thảo DụHóa Thành Dụ

CHÁNH VĂN

Dược thảo dụ là nói căn có lớn nhỏ, trí có chậm mau, cơ có sâu cạn. 

Bởi trong chúng Thanh Văn, hoặc nghi rằng pháp Đại thừa này, hạn trí lớn như Xá-lợi-phất, mới có thể lãnh thọ, bọn ta đâu kham nổi, nên đức Phật dùng thí dụ mà sách tiến họ. Bảo họ biết pháp ấy có thông cả lớn nhỏ, kẻ thượng trung hạ trí đều có thể đồng tu, chỉ ở phương tiện chứng đắc có mau chậm chẳng đồng thôi. 

GIẢNG

Có một số hàng đệ tử Thanh Văn của đức Phật mang mặc cảm mình là hạng căn cơ thấp kém, trong khi pháp Như Lai nói là pháp tối thượng, không thể áp dụng viên mãn được. Nghĩa là dù quí ngài khổ công tu cũng không đạt đến chỗ cao tột. Việc thành Phật chỉ dành cho hạng người căn khí đặc biệt, còn quí ngài không có hy vọng đó. Đây chẳng qua là mặc cảm thôi, chứ pháp Phật dạy một vị bình đẳng. Diệu pháp chỉ một vị, vị đó là vị gì? Vị Phật, vị nhất thừa. Phật chỉ làm một việc duy nhất là dạy chúng ta tu hành để thành Phật. Song do chỗ áp dụng, do sở hành của mỗi người khác nhau mà pháp Phật chia ra hoặc sâu hoặc cạn. 

Ở đây chúng ta cũng phải dẹp bỏ mặc cảm. Thật ra đây là loại mặc cảm ngụy biện mà thôi. Từ mặc cảm này chúng ta tu không tiến. Người có tinh thần cầu tiến, thấy huynh đệ tu tốt thì mình càng cố gắng tích cực, quyết tâm hơn. Huynh đệ tu được như thế, mình cũng tu được như thế, không nên mặc cảm mà trở ngại việc tiến tu. Tuy nhiên chúng ta ít ai được như vậy. Thấy người hơn mình thì ganh tị hoặc tự rút đầu rút cổ, mặc cảm chắc mình không có phần, không hy vọng. Không sáng suốt thấy được việc mình phải làm, cứ loay hoay lẩn quẩn buồn tủi, càng trở ngại cho công phu tu hành, trở ngại cho nguyện lành của mình. Thật đáng tiếc! Do đó thiền tăng phải dứt khoát phá tan mặc cảm này. 

Phá tan mặc cảm không có nghĩa là kiêu ngạo, mà chỉ nuôi dưỡng quyết tâm vươn lên. Người Tây phương nói: “Muốn là được, quyết là thành”. Nếu cái muốn của chúng ta không chính chắn, không tới mức thì sở nguyện không thành. Người không có quyết tâm, lơi lỏng, xen tạp những ý niệm vẩn vơ, suốt đời chẳng làm được việc gì cả. Một khi cảnh duyên bên ngoài xen vô rồi thì cứ lơ lững qua ngày, mê mờ không sáng suốt, không nỗ lực tu tập. Cho nên ở đây Phật dạy:

CHÁNH VĂN 

Cũng như một trận mưa nhuần thấm khắp hết, mà các cây cỏ hấp thụ có khác nhau, song nhuần thấm vẫn là một. Tu hành chỉ nương nơi tâm Diệu Liên Hoa này, một bề hướng thẳng tới trước cũng có lúc đến nhà.

GIẢNG

Một trận mưa nhuần thấm khắp hết, các cây cỏ hấp thu tuy khác nhau, nhưng cái nhuần thấm nước mưa là một, chứ không khác. Cây cỏ có khác, cây lớn hấp thu khác, cây nhỏ hấp thu khác, nhưng sự nhuần thấm nước mưa không khác. Chỉ nương nơi một tâm Diệu Liên Hoa này tức là nương nơi Tri kiến Phật. Căn cứ từ chất Phật đó mà tu, mà hành đạo kiên trì, quyết tâm tiến thẳng thì sẽ thành công.

Chúng ta đã được hấp thu trận mưa pháp của đức Phật, tuy trận mưa pháp đó cách chúng ta một thời gian đáng kể, trên hai ngàn năm. Nhưng bây giờ chúng ta vẫn được hấp thu, vẫn nhuần thấm. Chỉ còn một điều là nếu chúng ta quyết tâm thẳng tiến, không để cho việc tạp xen vào, nhất định chúng ta thành công. Không lý gì người xưa tu hành thành công, bây giờ chúng ta tu không được, chẳng lẽ mình đành chịu dang dở sao? Chúng ta phải kiên quyết, phải thể hiện ý chí thật tốt. Sở dĩ có những xen tạp là do hoàn cảnh riêng tư, do biệt nghiệp của mỗi người, đó không phải là cái chung. Đừng nên mắc mứu những thứ đó, hãy gác nó qua một bên, dốc lòng chuyên tâm vào một việc tu thôi. 

Chư huynh đệ đừng nghĩ rằng chúng ta muốn tu thành Phật, phải là những vị đạo cao đức trọng, có trách nhiệm lớn, có uy tín, có những đóng góp to lớn cho Phật giáo. Hiểu như thế là sai lầm. Tất cả chúng ta đều xứng đáng cả. Bởi vì màu áo, phẩm hạnh, thân tướng trang nghiêm của chúng ta thể hiện tròn đầy tính chất thanh tịnh giải thoát. Cho nên không thuyết pháp được, chúng ta vẫn là những vị thầy có trách nhiệm đối với công việc hoằng pháp thông qua phần thân giáo. Không phải là trụ trì, chúng ta vẫn là những vị thầy có trách nhiệm gìn giữ giáo pháp của Như Lai thông qua nếp sống đạo hạnh của mình. Dù không có uy tín, không có đệ tử, không có bổn đạo, nhưng chính bản thân chúng ta là cột trụ cần thiết giữa cuộc đời này, nói lên tinh thần đạo pháp, tinh thần tu hành giác ngộ giải thoát của người con Phật. Tất cả chúng ta đều ý thứcthực hành được như vậy thì đạo pháp tốt, giáo hội tốt, chùa chiền tốt, tăng đoàn tốt… mọi thứ đều tốt. 

Ngày hôm nay, giữa cuộc sống này, các anh em không đợi thành một ông thầy lớn, mà ngay khi còn là một tiểu tăng, sống trong ngôi chùa quê chuyên tu như thế này, thể hiện được dáng dấp, tư cách, nói năng và cư xử với nhau giữa huynh đệ với huynh đệ, huynh đệ với thầy, huynh đệ với tất cả mọi người chung quanh, thể hiện tròn đầy ánh sáng Phật pháp, thể hiện là người thấm nhuần trận mưa pháp của đức Thế Tôn. Đó là điều rất cần với người thật tâm tu hành. Nếu ở đây, bây giờ chúng ta không làm được việc đó thì ngày mai dù có lên núi hay xuống biển, đi Tây đi Tàu chi cũng chẳng làm được gì. Không có chuyện tương lai khi đã đánh mất hiện tại. Những người như thế rất dễ bị tham dục thế gian như quyền lợi, danh vọng còng trói lôi đi, làm hư hỏng cả đời tu.

CHÁNH VĂN

Hóa thành dụ là lời dạy thuở trước, nói nhân, nói duyên, nói giới, nói định. Hàng đệ tử Thanh văn tạm diệt thức tâm, trụ trong khô định, gọi là Niết-bàn. Kỳ thật chưa viên mãn tuệ tự tại, mà lại dừng ở trong đó, ấy gọi là dừng nơi hóa thành. Nên trong kinh nói: “Ta dù trước nói các ông được diệt độ, chỉ hết sanh tử, mà thật chẳng diệt. Nay các ông hãy gắng tiến lên, chỉ có trí tuệ Phật”.

Thế thì biết, kinh này mục đích là xiển dương Phật tuệ, biểu lộ Phật tri kiến, khuyên bảo người người cùng tu tiến, thẳng đến đạo tràng tịch diệt, mới là Phật tuệ rốt ráo, bảo sở của đại Niết-bàn.

GIẢNG

Hóa Thành dụ là sao? Là Phật lập bày phương tiện tạo ra Hóa thành để cho chúng sanh bớt ngán trên con đường trở về Bảo sở. Như từ đây về thành phố bảy mươi cây số, ngán lắm, đi bộ không nổi. Nếu vị dẫn đường không có phương tiện, ông cứ nói vào tai chúng ta phải đi bảy mươi cây số, mỗi cây số là bao nhiêu thước, gặp những khó khăn gì, mưa nắng thế nào. Nói như thế thì chắc không còn ai theo hết, họ sẽ gục ngã dọc đường, sẽ bỏ ông đi một mình. Trái lại, vị dẫn đườngphương tiện, có trí tuệ, sẽ động viên “Các anh ráng lên, coi vậy chứ không xa đâu, chân của chúng ta còn khỏe mà. Đoạn đường này tuy như thế nhưng đến đoạn đằng kia không có bụi bặm chi cả, tốt lắm”. Hoặc thấy anh em mệt quá, liền dụ “Ráng đi, đằng kia có nước uống, có võng cho mấy anh nằm nghỉ. Chúng ta gần tới nơi rồi v.v… Cứ như thế, qua một đoạn lại động viên, dần dần dẫn cả đoàn đi đến nơi đến chốn. Việc đó không có tội chi cả.

Trong đây đức Phật dùng Hóa Thành để dẫn dắt chúng sanh từ bờ mê dần dần về đến bến giác. Hóa thành dụ không phải là Bảo Sở. Chữ “Hóa” là hóa ra, hóa ra cái thành để dụ dẫn mọi người đến đó. Tại vì thấy đường dài, đoàn người ngán rồi, chân họ bắt đầu lết bết. Phật bảo gần đây có cái thành, đầy đủ tiện nghi, các ngươi nên mau đến đó để được nghỉ ngơi. Hóa Thành dụ là như thế. 

Khi mọi người tới được Hóa Thành rồi, nghỉ ngơi khỏe rồi, Phật bảo hãy ráng đi chút nữa, còn không xa sẽ đến đích cuối cùng. Ở đây chỉ là nơi tạm dừng chân thôi, không thể ở lâu. Dùng phương tiện hướng dẫn chúng nhân, họ tin được thì đi tới nơi. Đó là quyền biến của một bậc đạo sư dẫn đường cho đoàn người của mình đi đến nơi đến chốn. Chúng ta lười nhác nhiều đời nhiều kiếp rồi, lại không có sự sáng suốt, thích ngủ thích ăn… Do đó chúng ta cần phải đi theo sự hướng dẫn của các bậc đạo sư. Nếu ngang đây tự cho là viên mãn thì hỏng. 

Đời sống tu hành của chúng ta, thời gian có là bao nhiêu đâu? Chưa biết hai mươi, ba mươi hoặc mười năm, năm năm thì hết. Cho nên ở giai đoạn đầu huynh đệ ráng lên. Còn cư sĩ ráng tu, ráng làm việc cho có công đức, ráng tập vào nề nếp cho quen, chịu muỗi cắn ngồi thiền cho vững, chay lạt quen lòng, buông bỏ hết những chuyện đời từ trước đến nay. Phải vứt hết, để nhuần thấm nếp sống của người tỉnh giác. Qua giai đoạn đó rồi thì sẽ được xuất gia. Nhưng xuất gia rồi sao nữa? Xuất gia cũng chưa rồi. Phải học, học dài dài năm năm mười năm. Vị nào tối dạ thì hai ba chục năm. Học rồi sao nữa? Những gì quí vị đã được học, tiếp thu ra sao, phải áp dụng và sống cho được với tinh túy ấy. Phần tu tập của bản thân tương đối tạm ổn, chúng ta còn phải truyền đạt những kinh nghiệm tu tập lại cho người sau. Đó là nền tảng của sự tu hành.

Từng giai đoạn với những cung cách sống, nề nếp của các thiền tăng chúng ta là như thế. Đường dài, dốc ngược, ai mà có tâm niệm tự mãn, không tự chủ thì chẳng đi tới đâu. Người đó sẽ bỏ cuộc. Cho nên chúng ta phải cố gắng. Hòa thượng Viện trưởng dạy người tu thiền phải phát tâm trường viễn, phát tâm kiên cố. “Trường viễn” là lâu xa không nản. “Kiên cố” là dù có trở nghịch gì cũng không lay chuyển. Dài lâu là một chuyện mà bất động không lay chuyển là một chuyện khác. Có được những điều kiện đó, đầy đủ ý chí thì việc tu hành thành công dễ dàng. 

Như các thiền sinh tu ở thiền viện Thường Chiếu mười năm, tiếp thu Phật pháp hết rồi, sinh hoạt đã nắm vững, đường lối chủ trương không còn lờ mờ, tương đối vững vàng. Nhưng Hòa thượng không ưng, về Trúc Lâm ở hai chục năm nữa. Lên đó làm gì? Cũng quét sân, nấu cơm, đào rể thông chụm, mùa lạnh thì chịu lạnh, mùa nắng chịu nắng. Tưởng gì lạ! Như thế mười năm, hai ba mươi năm nữa, cho tới chừng nào bình thản an nhiên “Thế à!” trước mọi thứ. Chừng đó Hòa thượng đuổi xuống núi: “Mấy ông đi đi”. Xuống đó làm gì thì tùy. Gánh đất, đắp cầu… nhớ là làm mọi việc bằng đèn tuệ, bằng cái tâm vững vàng, thể hiện đại từ bi, thanh tịnh giải thoát. Ở thiền viện nào, Hòa thượng cũng đều tập trung nuôi nấng, đào tạo những con người như thế. 

Đối với những đệ tử xem như có trường lớp rồi, nhưng tự mãn ở chỗ của mình, nên đức Phật dùng Hóa Thành để nâng các vị ấy lên. Vì vậy sự nhắc nhở hay những phương tiện sách tấn giúp mình thăng tiến hơn nữa gọi là hóa thành

CHÁNH VĂN

Kinh này mục đích là xiển dương Phật tuệ, biểu lộ Phật tri kiến, khuyên bảo người người cùng tu tiến, thẳng đến đạo tràng tịch diệt, mới là Phật tuệ rốt ráo, bảo sở của đại Niết-bàn.

GIẢNG

Mục đích của kinh Pháp Hoa là Phật muốn chúng sanh vượt qua Hóa thành, tiến lên Bảo sở. Trong đây có những từ “Phật tuệ” hay “Tri kiến Phật” tức là chỉ cho sự giác ngộ giải thoát sau cùng. Nói Phật tuệ hay nói Tri kiến Phật cũng giống như nói tánh giác. Đức Phật khuyên bảo người người cùng tu tiến, thẳng đến đạo tràng tịch diệt, đó là Phật tuệ rốt ráo, bảo sở đại Niết-bàn. Chỗ đó không còn vướng mắc, không có một niệm, không bị động bởi bất cứ cảnh duyên nào. Người được như thế là người có lực lượng, có định tỉnh và trí tuệ

CHÁNH VĂN

Kệ rằng:

Cội, cành, nhánh, lá, số nhiều đa,

Chẳng ngoài ba bậc ấy thôi mà,

Mưa pháp khắp nhuần loài dược thảo,

Phật thừa cùng thọ hội Liên hoa,

Đại thông trí thắng, nhân còn đó,

Bồ-tát Sa-di, chánh hộ gia,

Chớ kẹt Hóa thành, nên tiến lộ,

Ngay đây Bảo sở, chẳng đâu xa.

GIẢNG

Cội, cành, nhánh, lá, số nhiều đa,

Chẳng ngoài ba bậc ấy thôi mà,

Cọng nhánh lá thì nhiều nhưng không ngoài ba bậc thượng, trung, hạ. 

Mưa pháp khắp nhuần loài dược thảo

Phật thừa cùng thọ hội Liên Hoa,

Một trận mưa pháp các cây cỏ đều được thấm nhuần. Thấm nhuần nhưng tùy theo mỗi loại. Cỏ thấm nhuần khác, cây lớn thấm nhuần khác. Tuy được nước mưa thấm nhuần, nhưng mỗi loại cây có khác. Nói khác nhưng không khác chi hết, tựu trung đều nhắm tới Phật thừa, thấm nhuần chừng nào tới chỗ rốt ráo của Phật pháp mới thôi. 

Đại thông trí thắng, nhân còn đó,

Bồ-tát Sa-di, chánh hộ gia,

Ở đây nhắc lại trong quá khứđức Phật Đại Thông Trí Thắng, mười sáu vị Sa-di v.v… là biểu trưng chánh pháp, phát huy hộ trì chánh pháp này.

Chớ kẹt Hóa thành, nên tiến lộ,

Ngay đây Bảo sở, chẳng đâu xa.

Hai câu chót là khuyên chúng ta chớ kẹt vướng nơi Hóa Thành mà phải tiến tới Bảo Sở. Đến Hóa Thành thì biết cách Bảo Sở chẳng còn xa nữa. Tuy nhiên, nếu chúng ta không nhận được chỗ không cách xa thì sẽ trở ngại cho việc tu hành của mình. Sở dĩ chúng ta tu không tiến, là vì có quan niệm lâu xa, mặc cảm làm không nổi. Bởi quan niệm như thế nên chúng ta bị thoái hóa, hư hỏng, giữa dòng bỏ cuộc. Bây giờ chúng ta phải thay đổi quan điểm bằng cách thể hiện công phu tu hành, cung cách sống trong sinh hoạt thời thường. 

Quyết tâm của chúng tathực hiện Phật đạo, cho nên dù hiện tại có những trở ngại, hoặc các biến thái ngăn cản quá trình chúng ta thực hiện Phật đạo, mình cũng nhẫn vượt qua. Thiếu đức nhẫn chúng ta sẽ không làm gì được, chỉ thấy khó khổ, tự sanh thối chuyển. Do đó Phật dạy nhẫn là mẹ của muôn cửa công đức, nhẫn được sẽ thành tựu tất cả. Ở đây không nói nhẫn mà nói không cách xa, nó nằm trong tầm tay, chúng ta có thể thực hiện được. Nếu còn mù mờ chỗ này, chúng ta tu khó tiến. 

Sáng đạo là gì? Là thấy được việc của mình làm, đường của mình đi. Chúng ta làm không phải bị bắt buộc hay làm mà không hiểu gì hết. Một ngày một bữa, dù chỉ ghé qua thiền viện một ngày thôi, đường đi nước bước, sự tu hành chúng ta nắm rõ. Người như thế dễ sáng đạo, dễ nhận ra được việc chính của mình. Lâu nay chúng ta không nhận được việc sanh tử là gì nên cứ lầm mê. Sợ chết nhưng lại gây nghiệp để phải chết, thế thì đâu phải là người sáng. Bây giờ hiểu đạo rồi, mình không sợ chếttự tại với cái chết. Quan trọng là đừng gây nhân để bị chết. Không gây nhân xấu là người sáng đạo, chỉ thế thôi. Chứ không phải người sáng đạo là người có thần thông bay lên, biết quá khứ vị lai, hoặc hét một tiếng đảo lộn cả càn khôn vũ trụ, trừng con mắt lên là đèn đuốc tắt hết. Không phải thế. Người sáng đạo là người tự tại với tất cả. Trước nhất là tự tại với cái ăn mặc, ngủ nghỉ, làm việc, tiếp xúc mọi thứ, hoàn toàn tự chủ. Người được như thế thì đối với việc sống chết luôn bình thản an nhiên

Nhiều người nói thế này, với tôi sao cũng được hết. Ai nói tôi xấu dở, dốt nát… cũng được, nhưng chửi cha tôi thì không được. Mới nghe thấy hay. Nhưng nghiệm lại xem chửi cha với nói những thứ kia có khác nhau đâu. Nếu người thực sự tự tại được đối với tất cả những hý luận thì vấn đề chửi cha không là gì nữa. Phải vậy mới được chứ. Hoặc nói sáng bỏ ăn cũng được, giữa buổi bỏ ăn cũng được, trưa bỏ ăn cũng được, nhưng chiều phải cho tôi ăn một bữa thật no… thì cũng như không. Chiều ăn chuẩn bị, để rồi sáng trưa khỏi ăn, chứ có gì lạ đâu. Tự tại là sáng ăn cũng được, trưa ăn cũng được, chiều ăn cũng được, khi ăn chỉ thấy ăn thôi. Chỉ thấy ăn đây không có nghĩa là ham ăn, mà dạ dày đòi cung cấp thì phải cung cấp cho nó làm việc. Nó làm việc để mình yên ổn mà tu. Vậy thôi.

Một khi đạo lực của các anh em phát triển được rồi, cái cốt bên trong đã vững, thì mọi thứ chung quanh sẽ chuyển. Bên trong an nhiên tự tại, thì bên ngoài hiện tướng bình thản giải thoát. Ngược lại bên ngoài bồn chồn, bức xúc, cau có… chứng tỏ cốt bên trong chưa xoay đúng chiều của tâm an định. Cho nên phải xoay chuyển bên trong. Dáng vẻ bên ngoài tuy không thật, nhưng nó thể hiện cái cốt bên trong, do đó không thể xem thường. Nhiều vị nhân thấy dáng vẻ bên ngoài của các bậc thầy trang nghiêm khả kính mà đến với đạo. Có người nghe thuyết pháp mà đến với đạo. Có người nghe chư tăng tu hành thanh tịnh mà đến với đạo v.v... nhiều cách lắm. Tóm lại, trong ngoài tương ưng nhất như mới được xem là viên dung.

Các vị nhớ. Từ dáng đi đứng, từ cách đánh chuông đánh mõ, từ cách nâng bát dùng cơm, cách nói năng, cách cầm dụng cụ đi làm công tác, cách nằm nghỉ, cách nhìn ngó v.v... tất cả những oai nghi đó đều thể hiện ánh sáng bên trong của mình. Chúng ta đánh chuông là đánh để cho mọi người nghe và hòa được tiếng kinh của toàn chúng, đánh mõ cũng vậy. Đánh từ giữa khoảng quấn nệm vải mới có âm thanh, đánh có lực của cái tay, đánh vừa phải, không quá lớn cũng không quá nhỏ. Đánh mõ hay khánh tụng trường canh phải cho đều. Tụng nhanh cũng được, tụng chậm cũng được, tụng lớn cũng được, tụng nhỏ cũng được, theo nhịp hòa điệu của đại chúng. Người ta tụng lớn mình tụng lớn, người ta tụng nhỏ mình tụng nhỏ. Người ta xướng giọng trầm mình tụng giọng trầm, người ta xướng giọng bổng mình tụng giọng bổng, mới là hòa. Chứ người ta xướng cao mà mình tụng giọng thấp là mất hòa, đánh mõ tụng nhanh mà mình tụng chậm là mất hòa. Thể hiện một thời kinh được gọi là hòa âm phải như thế. Một thời kinh được hòa âm, bên ngoài nghe rất hay, lay chuyển tâm trạng người nghe nhiều lắm. Nếu trong tâm có vấn đề thì quí vị sẽ đánh nhanh, hoặc trong chúng sắp ngủ gục hết mà quí vị vẫn mơ hồ thả từng tiếng, chắc chắn lát sau cả chúng nằm bẹp xuống hết.

Kính lễ cũng vậy. Đức Phật không biểu mình lạy ngài. Tự chúng ta phát tâm muốn đảnh lễ Thế Tôn mà. Vậy tại sao vào điện Phật rồi không chịu lạy cho đàng hoàng. Phải kính lễ đàng hoàng chứ! Đầu diện tiếp túc quy mạng lễ. Cớ sao mình bày rồi mình không được siêng năng? Chúng ta phải soát xét lại, nhiều khi tu lâu rồi quen, không còn siêng năng nữa. Sự không siêng năng đó thể hiện vừa lạy vừa ngáp ngược. Ông ở bên thấy vậy cũng ngáp ngược. Những hình ảnh ấy xem ra cũng quan trọng lắm, vì nó tác động đến tín tâm của người Phật tử bên ngoài nhìn vào.

Thời tu hành của chúng ta luôn luôn có thiện thần hộ pháp, hộ giáo hộ giới, ủng hộ đạo tràng già lam v.v… Các vị đó luôn luôn có mặt để hỗ trợ mình. Chúng ta tu hành đàng hoàng người ta mới ủng hộ chớ, nếu tu hành không ra chi ai thèm ủng hộ mình. Nếu chư vị không hỗ trợ làm sao mình bình yên tu được. Chư huynh đệ thấy sống hàng trăm mấy chục người như thế này mà bình yên hết, cơm gạo không thiếu, cũng không có chuyện gì, nhất định là có sự hỗ trợ của các bậc thiện thần, luôn cả những vị lãnh đạo quốc gia, đàn na tín thí. Cho nên chúng ta phải tu cho tốt mới xứng đáng và có thể đền đáp được các ân sâu ấy.

Hồi trước tôi còn trẻ khỏe nên theo sát chư tăng hướng dẫn từ cách lạy Phật, tụng kinh, đánh mõ, đánh chuông, đi đứng, ngủ nghỉ… mỗi mỗi đều chỉ vẽ. Bây giờ tôi già rồi, sức khỏe kém, các anh em lớn phải chỉ dạy lại cho người nhỏ. Như vậy mới duy trì được mạng mạch Phật pháp, duy trì và phát huy được tâm nguyện tu hành của chúng ta tới ngày viên mãn, xứng đáng là hàng đệ tử xuất gia của Như Lai

Chúng ta đang ở trong giai đoạn Hóa Thành, nếu cố gắng không lâu sẽ đến Bảo Sở. Mong tất cả ghi nhớ và thực hành cho.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29908)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27187)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21779)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22243)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23621)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20434)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20059)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21952)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24769)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 19012)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24787)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30996)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 24006)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27780)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26545)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21356)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23241)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38163)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18809)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18439)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19998)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19058)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23187)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23899)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22830)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22939)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29602)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20652)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18729)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15854)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18868)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19698)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20171)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19964)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18133)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22973)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34197)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16438)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16937)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39277)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26099)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20116)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18865)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24077)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29161)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22913)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30978)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21023)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26873)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20684)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26274)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23348)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19836)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24698)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30053)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20242)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20419)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15161)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15846)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23922)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant