Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

13 Phẩm Phân Biệt Công Đức, Tùy Hỷ Công ĐứcPháp Sư Công Đức

26 Tháng Năm 201000:00(Xem: 6627)
13 Phẩm Phân Biệt Công Đức, Tùy Hỷ Công Đức Và Pháp Sư Công Đức

ĐỀ CƯƠNG KINH PHÁP HOA
Hoà Thượng Thích Nhật Quang
Thiền Viện Thường Chiếu

 

Phẩm Phân Biệt Công Đức, Tùy Hỷ Công Đức
Pháp Sư Công Đức

CHÁNH VĂN 

Phẩm Tùy Hỷ Công Đức

Do kinh này, nguyên lai là mở bày thức tâm vọng tưởng của chúng sanh, chỉ rõ tri kiến Nhất thừa Phật tuệ thanh tịnh. Nên vào đầu kinh Phật phóng quang có hai ý:

1. Nhân ánh sáng mà được thấy rõ.

2. Hiện cảnh mà dẫn khởi thức tâm

Khiến hạng người chấp thức sanh nghi, để rồi theo chỗ nghi ngờ của họ mà chỉ bày. Di Lặc đương cơ khởi nghi, ấy vì Di Lặc từ xưa đến giờ dùng thức mà tu. Nhưng thức thì nhiều lưu chuyển, niệm niệm sanh diệt. Trong đoạn kinh trước nói: “lòng thường ôm giải đãi, say đắm nơi danh lợi không chán, luôn dạo nhà giàu có”.

Đoạn kinh nói trên là chỉ cho thức tâm vậy. Lấy Di Lặc mà ví cho cả chúng sanh, từ vô thủy đến giờ, chấp vọng thức này làm thể. Nay trên hội được nghe kinh Pháp Hoa, khế hợp với bản tâm, chân như thanh tịnh, chẳng sanh chẳng diệt. Mới hay tâm này, là nhân chánh thành Phật. Nương nơi đây tu hành tiến vào, thì mỗi pháp mỗi pháp đều là công đức, thẳng đến thành Phật, lại chẳng còn theo vọng thức lưu chuyển nữa. Đó cũng là tiêu biểu cho nghĩa chuyển thức thành trí vậy.

Nên biết, nếu có người được nghe kinh này, quyết định tương lai thành Phật. Thế nên đều phải tùy hỷ.

Nhưng tùy hỷ kinh này lần lượt đến người thứ năm mươi, công đức của người này, chẳng thể đem những công đức khác, mà có thể so sánh bì kịp. Huống nữa là pháp sư, siêng năng thọ trì đọc tụng kinh này, thì tự thấy thiên chân chẳng động, sáu căn thanh tịnh bản nhiên. Đấy là công đức của pháp thân, dù có tính đếm, thí dụ, cũng chẳng lường xiết.

GIẢNG

Vào đầu kinh Pháp Hoa chúng ta thấy Phật hiện tướng phóng hào quang từ lông trắng ở giữa chân mày. Hào quang đó soi khắp trên dưới mười phương cõi, hiện rõ lục thú luân hồi. Nguyên lai để mở bày thức tâm vọng tưởng của chúng sanh, chỉ rõ tri kiến nhất thừa Phật tuệ thanh tịnh. Chỉ ra đâu là thật, đâu là không thật, cái nào là thức tâm vọng tưởng, cái nào là nhất thừa Phật tuệ thanh tịnh.

Hòa thượng Ân sư dạy vừa có một niệm dấy khởi, biết nó không thật, buông đi. Nếu chúng ta thực hiện được như vậy thì không bị niệm kéo đi. Từ đó ta vạch bày được Phật tuệ Nhất thừa tri kiến của mình. Những hình ảnh ta tiếp xúc đều là thức tâm không thật. Người nào biết được như vậy là có trí dụng, tri kiến Phật từ đó được hiện bày. Trái lại trong tiếp duyên xúc cảnh ta không nhận được đâu là thật, đâu là giả, bị cảnh duyên kéo lôi, chạy theo niệm lăng xăng, thì bị thức tình vọng tưởng nhận chìm. Người như vậy tri kiến Phật tuệ không bao giờ mở cửa. Chỉ khi chúng ta làm chủ được, không bị mắc mứu bởi các duyên, tri kiến Phật tuệ mới hiện bày. Tu tập cho đến khi nào chúng ta tự tại, không còn bị vướng mắc, chao đảo bởi các hiện tượng bên ngoài, lúc đó không nói thức tâm, cũng không nói tri kiến địa, không nói Phật tuệ thanh tịnh… mà lúc đó là lúc như như, hằng sống được với ông chủ.

Trước khi nói kinh, Phật phóng ánh sáng từ lông trắng giữa chân mày, ánh sáng đó soi khắp mười phương cõi, cho chúng ta thấy tất cả cảnh giới, để rồi theo chỗ nghi ngờ của chúng sanh mà chỉ bày. Ở đây đương cơ là Bồ-tát Di Lặc, pháp tu của ngài dựa trên thức tâm.

Di Lặc đương cơ khởi nghi, ấy vì Di Lặc từ xưa đến giờ dùng thức mà tu. Nhưng thức thì nhiều lưu chuyển, niệm niệm sanh diệt. Trong đoạn kinh trước nói: “lòng thường ôm giải đãi, say đắm nơi danh lợi không chán, luôn dạo nhà giàu có”. Những người lòng thường giải đãi, không vui, không năng nổ, tuy cũng sợ khổ muốn tu, nhưng chưa dứt khoát. Nếu có duyên bên ngoài rủ rê mạnh hơn, họ chạy theo liền. Huynh đệ nào lười nhác tu học, lười nhác làm công việc trong chúng, đó là sống theo thức tình vọng tưởng, chưa nhận và sống với tâm thể thanh tịnh của mình.

Người say đắm nơi danh văn lợi dưỡng sẽ bị thức tâm nhận chìm. Người không siêng năng tu hành, cứ bỏ bê thời khoá, trong lòng nuôi dưỡng những danh văn lợi dưỡng, liên hệ với những nhà quyền quý, cuối cùng sẽ bị những thứ ấy câu thúc, không thể tu hành được. Cho nên vị nào từ thời mới tu hay giao thiệp với quần chúng Phật tử để tư lợi về mình, trước nhất tự bản thân họ đánh mất thì giờ tu tập, sau là không thể giữ được cương lĩnh tu hành. Vì mục đích chánh yếu của đời tu đã bị xoay chuyển. Huynh đệ người nào có tâm như thế, sớm muộn gì rồi cũng bỏ đạo. Bởi vì đạo lý không hấp dẫn bằng danh văn lợi dưỡng. Ngược lại nếu sự giao thiệp đó có lợi cho tập thể, bản thân họ không tham đắm danh văn lợi dưỡng thì người đó có phước. Tuy nhiên không khéo họ cũng bị vướng mắc vào các việc phước thiện ấy. Vì thế phải xác định lập trường của mình là khai mở tuệ giác, chấm dứt phiền não khổ đau. Phước thiện chỉ có giá trị hữu hạn, không phải là mục đích cứu cánh của người xuất gia cầu giải thoát

Những thứ bên ngoài không thiết thực đến việc tu hành của chúng ta. Nó dễ làm dấy khởi thức tình vọng tưởng. Một khi thức tình vọng tưởng hưng phấn rồi thì tâm thể rỗng rang sáng suốt bị phủ che. Vì vậy chủ trương tu ở thiền viện, Hòa thượng dạy tất cả thiền sinh phải đề cao tỉnh giác. Vì nếu không tỉnh giác là mê. Mê là quên. Quên đi tánh giác bản hữu thanh tịnh sẵn có của mình. Từ đó bị mắc mứu, chạy theo những vọng tưởng lăng xăng điên đảo. Trong kinh Lăng Nghiêm gọi là chạy theo bóng dáng sáu trần

Người sống được với tánh giác thì thức tình không làm gì được. Từ tỉnh giác phát huy tâm thái sáng suốt, xóa tan mọi mê mờ si ám. Nếu mình cứ lờ mờ, thức tình trổi lên, tánh sáng kia bị phủ che. Vì vậy Hòa thượng dạy vừa có một niệm dấy khởi, chúng ta phải buông cho được những niệm đó. Tức là không để thức tình vọng tưởng dấy lên, bộc phát và lôi kéo chúng ta đi vào mê lộ.

Bồ-tát Di Lặc thị hiện gương hạnh tu hành trước, nếu việc nào không chính đáng chúng ta phải tránh để không bị vướng vào đó, mất thì giờ. Đức Thích Ca nói giữa Ngài và Bồ-tát Di Lặc cùng phát tâm xuất gia một lượt. Bồ-tát Di Lặc thích giao thiệp với những nhà giàu có, lẩn quẩn theo việc danh lợi, nên thành Phật sau đức Thích Ca. So sánh như thế để chúng ta khởi tâm quyết liệt trong công phu tu tập

Chúng ta xuất giathọ giới của Phật là có nhân duyên lớn, có công đức. Ánh sáng ban đầu tuy nhỏ nhưng nó sẽ phát huy và được soi khắp. Một ông hoàng con trong tương lai sẽ thành một ông vua lãnh đạo khắp thiên hạ. Chúng ta chỉ là người mới phát tâm tu hành, nhưng nếu tu hành chân chánh nhất định sẽ thành Phật, giáo hóa lợi ích vô lượng chúng sanh. Chúng ta đã xuất giathọ giới của Phật, cố gắng nêu cao tánh giác, đừng để thức tình có cơ hội dấy lên kéo lôi mình. Được vậy nhất định sự tu hành sẽ tăng tiến.

Đoạn kinh nói trên là chỉ cho thức tâm vậy. Lấy Di Lặc mà ví cho cả chúng sanh, từ vô thủy đến giờ, chấp vọng thức này làm thể. Nay trên hội được nghe kinh Pháp Hoa, khế hợp với bản tâm chân như thanh tịnh, chẳng sanh chẳng diệt. Mới hay tâm này, là nhân chánh thành Phật. Ở đây nói Bồ-tát Di Lặc là một vị Bồ-tát thị hiện cầu danh, tu từ thức tâm vọng tưởng, trải dài kiếp số mới thành tựu Bồ-đề. Chúng ta cũng như thế, thường bị thức tình vọng tưởng kéo lôi, nên việc tu hành trì trệ. Chúng ta thường quên lãng tánh giác nên bị vọng tưởng lăng xăng nhận chìm. Trong đó có ngũ dục tài, sắc, danh, thực, thùy. Nếu không khéo mình sẽ bị cái dục thứ năm là ham ngủ nhận chìm, không ngoi đầu lên nổi. 

Tinh thần tu hành miên mật, sẽ giúp hành giả vượt thắng mọi chướng ngại. Trong mọi thời khóa tu hành lúc nào mình cũng giữ đều đặn, thầm bảo vệ sự tỉnh giác thì tham, sân, si, vọng tưởng điên đảo… sẽ không làm gì được mình. Đây là kinh nghiệm của những bậc đi trước và cũng là bài học thể nghiệm của những vị hiện tại. Nếu không qua được cửa này đừng nói tới chuyện vào thiền định. Muốn vào thiền định phải có sự miên mật trải dài mới được.

Chúng ta nghe nói sanh tử cũng ngán, thấy người khác chết cũng sợ, nhưng vẫn còn dể duôi, chưa chuẩn bị gì cho bản thân. Ta cứ ham chơi, ham ăn, ham lười biếng, cầu danh lợi… do đó chưa vào được chỗ miên mật. Nếu ngán việc sanh tử, lúc nào cũng nỗ lực công phu, như vậy mới ra khỏi sanh tử được chứ. Bây giờ ta thử công phu miên mật, xem có trị nổi bệnh dể duôi, lười nhát, vọng tưởng lăng xăng không.

Thiền sinh trong hoàn cảnh hôm nay, một xã hội hiện đại, văn minh bắt buộc càng phải vững chắc trong công phu thiền định. Có thiền định mới phát sinh trí tuệ giáo hóa chúng sanh. Nếu chúng ta chưa thực hiện được những ý nguyện trên thì im lặng. Im lặng không có nghĩa là đầu hàng mà để chuẩn bị một tư thế mạnh mẽ hơn, kiên quyết hơn. Biết các pháp không thật, tại sao mình phải đầu hàng? Bây giờ chúng ta chưa làm được, nhất định sau đó sẽ làm được.

Thiền sư luôn luôn khắc phục, chứ không cầu xin. Khi cầu xin là mình chấp nhận sự yếu đuối cả đời, không vươn lên được. Một nhà tu, tuy hiện nay còn những niệm lăng xăng, nhưng sẽ phát huy trọn vẹn thành Phật và độ tất cả chúng sanh. Chính những người tu hành mới dám phát nguyện vào địa ngục để giáo hóa chúng sanh, giúp họ nhận ra tánh giác và hết khổ. Việc làm của chúng ta to lớn như thế.

Nên biết, nếu có người được nghe kinh này, quyết định tương lai thành Phật. Thế nên đều phải tùy hỷ. Nghe được kinh này, tức là nghe được Phật tri kiến, nhận được Phật tri kiến của chính mình. Nhận đây là nhận Phật nhân, Phật gốc. Nhận được mình có gốc Phật mới phát tâm tu hành thành Phật. Trong kinh Pháp Hoa nói những đồng tử giỡn chơi, chúng đùa cát thành tháp Phật, chúng niệm Phật, đều được Phật huyền ký cho những đứa bé này tương lai sẽ thành Phật.

Nhưng tùy hỷ kinh này lần lượt đến người thứ năm mươi, công đức của người này, chẳng thể đem những công đức khác, mà có thể so sánh bì kịp. Huống nữa là pháp sư, siêng năng thọ trì đọc tụng kinh này, thì tự thấy thiên chân chẳng động, sáu căn thanh tịnh bản nhiên. Đấy là công đức của pháp thân, dù có tính đếm, thí dụ, cũng chẳng lường xiết. Công đức của người hành trì kinh này rất rộng lớn, nhẫn đến người nơi một niệm tùy hỷ với tri kiến Phật, nhất định cũng sẽ thành tựu Bồ-đề. Nếu hành trì đúng sẽ thấy được chân tánh bất động và sáu căn thanh tịnh bản nhiên.

CHÁNH VĂN

Kệ rằng:

Dật-đa hội ngộ, chánh nhân đồng,
Xin hỏi Năng nhân, lường xét công,
Tùy hỷ vì người mà chỉ dạy,
Văn Tư Tu tự chứng viên dung,
Ví chăng thí chủ công tuy lớn,
Đâu sánh nghe kinh, đức chẳng cùng,
Huống nữa thọ trì siêng giảng thuyết,
Sáu căn thanh tịnh hiển thần thông.

GIẢNG

Đây là phẩm nói về công đức của người nhận ra tánh giác, hằng sống với tánh giác, người không bị thức tình vọng tưởng kéo lôi. Chúng sanh bị dòng đời lôi cuốn nên quên tánh giác gọi là mê. Quay về được tâm thanh tịnh bản nhiên, không bị vọng tưởng kéo lôi gọi là giác. Đó là điều mà thiền sinh chúng ta phải nhớ. Mong tất cả chư huynh đệ cùng hạnh, cùng hướng, cùng nguyện sẽ khắc phục những khiếm khuyết của mình, để chúng ta đồng bước vào giai đoạn công phu miên mật tăng tiến. Nếu công phu miên mật tăng tiến rồi, lúc ấy chúng ta hiện tiền, hiện bày rỗng rang sáng suốt. Vui thú biết là bao!
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19739)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23993)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41254)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19727)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 24033)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21756)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23333)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27524)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26591)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29367)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33243)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20220)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25806)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20950)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31359)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38629)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21469)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44304)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29869)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42265)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22166)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45826)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32154)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23993)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24432)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29324)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33951)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27715)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32189)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21103)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28881)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21620)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28120)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22095)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21461)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19544)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19496)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19852)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19285)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29238)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20647)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28331)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23678)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33235)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31882)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21432)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39691)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21592)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19414)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26436)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24859)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21777)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22415)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29176)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22585)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20493)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23564)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21273)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35385)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24581)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant