Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm 20: Vương Pháp Chính Luận

01 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 7759)
Phẩm 20: Vương Pháp Chính Luận

KINH KIM QUANG MINH
(KINH ÁNH SÁNG HOÀNG KIM)
Hoà Thượng Thích Trí Quang Dịch Giải 
Bản Hoa Dịch của Ngài Nghĩa Tịnh

 

Phẩm 20: Vương Pháp Chính Luận

Bấy giờ nữ thần đại địa tên Kiên lao địa thần, ở trong đại hội lại từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ ngang chân đức Thế tôn, chắp tay cung kính mà thưa, bạch đức Thế tôn, trong mọi quốc gia, những người làm quốc vương, nếu khôngchánh pháp thì không thể quản trị quốc gia, an dưỡng quốc dân, bảo đảm bản thân ngồi lâu vương vị. Kính xin đức Thế tôn từ bi thương tưởng, dạy cho con nghe về vương pháp chính luận, chủ yếu của sự quản trị quốc gia. Để cho các vị quốc vương nghe được chánh pháp này thì tuân hành đúng như huấn dụ, đem chánh pháp mà hoá cải quốc dân, làm cho ngôi vua an ninh, quốc dân lợi lạc. Lúc ấy, ở trong đại hội, đức Thế tôn bảo Kiên lao địa thần, địa thần hãy nghe cho kyծ Quá khứquốc vương tên là Lực tôn tràng. Quốc vươngthái tử tên Diệu tràng. Đăng quang không bao lâu, phụ vương bảo Diệu tràng, có vương pháp chính luận tên là Pháp của trời dạy. Trước đây ta đăng quang làm quốc vương, thì phụ vương của ta tên Trí lực tôn tràng đã dạy cho ta chính luận ấy. Ta y theo nên khéo quản trị quốc gia trong hai mươi ngàn năm, ta nhớ không hề mống lên một ý nghĩ làm điều phi pháp. Ngày nay con cũng phải như vậy. Đừng đem điều phi pháp mà quản trị quốc gia. Vương pháp chính luận là gì, con hãy nghe cho khéo, ta sẽ nói cho. Thế rồi quốc vương Lực tôn tràng liền nói cho con về chính luận ấy, bằng những chỉnh cú sau đây.

(1) Tôi nói vương pháp luận 
lợi lạc bao sinh linh
để loại trừ hoài nghi 
loại bỏ lỗi lầm
(2) Tất cả các thiên chủ 
cùng với các nhân vương 
nên sinh tâm hoan hỷ 
chắp tay nghe tôi nói. 
(3) Xưa bộ chúng chư thiên 
họp tại Kim cương sơn
bốn Thiên vương đứng dậy 
xin hỏi Đại phạn vương. 
(4) Đại phạn vương tối tôn 
tự tại nhất chư thiên
xin thương tưởng chúng tôi 
loại trừ giúp hoài nghi
(5) Làm sao ở nhân loại 
mà được gọi là trời? 
lại vì lý do nào 
mà gọi là con trời? 
(6) Tại sao sinh nhân gian 
một mình làm nhân vương? 
rồi sao tại chư thiên 
lại được làm thiên chủ? 
(7) Người hộ vệ thế giới 
hỏi Đại phạn vương rồi, 
Đại phạn vương bấy giờ 
liền nói cho họ nghe. 
(8) Người hộ vệ thế giới
ích lợi bao kẻ 
mà hỏi phép trị nước, 
ta nói, hãy lắng nghe. 
(9) Do lực thiện nghiệp cũ 
sinh thiên làm thiên chủ
lại ở trong nhân loại 
làm quốc vương thống lĩnh. 
(10) Chư thiên cùng da hộ 
mới nhập vào thai mẹ, 
khi ở trong thai mẹ 
chư thiên vẫn giữ gìn
(11) Dẫu sinh trong nhân loại 
tôn hơn nên gọi trời, 
do chư thiên hộ vệ 
nên được gọi con trời. 
(12) Chúa trời Đao lợi thiên 
phân sức giúp nhân vương
và tất cả chư thiên 
cũng giúp sức tự tại
(13) Loại trừ mọi phi pháp 
không cho sinh ác nghiệp
dạy người tu điều thiện 
để họ sinh chư thiên
(14) Nhân loại, a tô la, 
càn thát bà vân vân
la sát, chiên trà la, 
cùng giúp đến nửa sức. 
(15) Cha mẹ giúp nửa sức 
để bỏ ác làm lành, 
chư thiên càng hộ trì 
chỉ cho thấy phước báo
(16) Nếu tạo tác ác nghiệp 
thì ngay trong hiện tại 
chư thiên đã không giúp 
chỉ cho thấy ác báo
(17) Quốc dân tạo ác nghiệp
quốc vương không cấm đoán, 
thế là phi chánh pháp 
không đúng cách trị đuổi. 
(18) Thấy ác mà không chận, 
phi pháp tự tươi lớn, 
thế là trong vương quốc 
gian trá ngày càng nhiều. 
(19) Quốc vương thấy quốc dân 
làm ác mà không ngăn, 
thì chư thiên Đạo lợi 
cùng sinh ra phẫn nộ
(20) Nên quốc chính thương tổn 
dối trá lan khắp nước, 
bị ngoại thù xâm lược 
hủy diệt cả vương quốc. 
(21) Nhà ở với đồ dùng 
tài sản đều tan hoang, 
nịnh và láo đa dạng 
chiếm đoạt hại lẫn nhau. 
(22) Do Pháp mới làm vua, 
mà không tuân hành Pháp, 
quốc dân phải tan rã 
như hồ sen voi dẫm. 
(23) Gió dữ nổi lên mãi, 
mưa dữ đổ trái mùa
yêu tinh lắm biến quái, 
nhật nguyệt thực tối mờ. 
(24) Ngũ cốc cùng hoa quả 
trái hạt đều hư hỏng, 
quốc gia bị đói khát 
vì vua bỏ chánh pháp
(25) Vua mà bỏ chánh pháp 
đem phi pháp dạy dân, 
thì ở cung điện mình 
chư thiên vẫn lo rầu. 
(26) Những vị thiên vương ấy 
cùng nhau nói như vầy
vua mà làm phi pháp
phe ác hùa với nhau
(27) Thì ngôi vua bất an
chư thiên cùng phẫn nộ
chư thiênphẫn nộ
quốc gia ấy bại vong
(28) Giáo dục bằng phi pháp 
lan tràn trong quốc gia
thì đấu tranh gian dối
thì bịnh dịch hoành hành. 
(29) Thiên chủ không hộ vệ
chư thiên khác cũng bỏ, 
quốc gia sẽ diệt vong
quốc vương bị khổ ách
(30) Cha mẹvợ con 
anh em và chị em 
đều bị khổ biệt ly
đến nỗi phải mất mạng
(31) Biến quái và sao sa, 
nóng như hai mặt trời, 
giặc thù đến từ ngoài, 
quốc dân phải tan hoang. 
(32) Đại thần cả nước trọng 
thì chết oan chết uổng, 
đến voi ngựa vân vân 
cũng tản mát sạch không. 
(33) Giặc giã khắp mọi nơi
dân chết vì phi pháp
ác quỉ thì xâm nhập
bịnh dịch thì hoành hành. 
(34) Tối đại thần trong nước, 
cùng các vị phụ tướng, 
lòng đầy những dua nịnh
cùng nhau làm phi pháp
(35) Thấy kẻ làm phi pháp 
mà yêu mến kính nể, 
thấy người làm thiện pháp 
lại hành hạ khổ sở. 
(36) Do yêu nể kẻ ác 
hành hạ người lành, 
nên tinh tú, phong, vũ, 
không còn thuận thời tiết. 
(37) Ba điều xấu ấy sinh 
thì chánh pháp ẩn mất, 
con người hết tươi sáng, 
màu mở đất cũng mất. 
(38) Vì nể ác khinh lành, 
có ba điều xấu nữa: 
sương, mưa đá trái mùa
đói, dịch, cùng lưu hành
(39) Lúa má với trái hạt 
phẩm chất đều tổn giảm, 
thế nên trong quốc gia 
dân đa số bịnh tật. 
(40) Những loại cây thổ sản 
trước đây là ngon ngọt, 
nay vì thế tổn giảm 
đắng chát không ra gì. 
(41) Trước đây lâm viên đẹp, 
toàn chỗ du ngoạn tốt, 
nay bỗng nhiên khô cằn, 
ai thấy cũng lo rầu. 
(42) Lúa, nếp, thứ chắc hạt, 
phẩm chất tiêu mất dần, 
ăn không còn thấy thích, 
làm sao tăng thể lực? 
(43) Dân chúng mất tươi sáng, 
đẹp và khỏe suy tàn
ăn với uống tuy nhiều, 
vẫn không làm sung sức. 
(64) Trong cả quốc gia ấy 
mọi tầng lớp quốc dân 
ít sức, không khoẻ mạnh, 
làm việc không kham năng
(65) Quốc dân nhiều bịnh hoạn 
cơ thể nhiều đau đớn
quỉ mị tràn khắp nơi 
tùy theo sinh la sát
(66) Vua mà làm phi pháp 
thân gần với kẻ ác, 
thì cả ba thế giới (89) 
do vậy suy tổn cả. 
(67) Vô số hiện tượng xấu 
xuất hiện trong quốc gia
toàn do thấy kẻ ác 
bỏ qua, không trị, đuổi. 
(68) Do chư thiên da hộ 
được làm vị quốc vương
mà không đem chánh pháp 
bảo vệ lấy quốc gia
(69) Nhưng người làm điều lành 
thì sẽ sinh chư thiên
còn kẻ làm điều ác 
chết đọa ba đường dữ
(70) Quốc vương mà buông thả 
để quốc dân làm ác, 
thì chư thiên Đao lợi 
nóng bức cả tâm trí
(71) Chư thiên dạy không nghe 
cha mẹ nói không cứ 
thì là người phi pháp 
phi vua phi hiếu tử
(72) Nếu trong quốc gia mình 
thấy ai làm phi pháp
phải trị phạt đúng phép 
không nên bỏ cho qua. 
(73) Thế nên hàng chư thiên 
cùng hộ trì vua ấy, 
vì vua diệt ác pháp 
và theo được thiện pháp
(74) Vua ấy trong đời này 
đón nhận quả báo tốt, 
vì đối với thiện, ác 
biết khuyên dân làm, bỏ. 
(75) Huấn thị thiện ác báo, 
nên làm vị quốc vương
chư thiên cùng hộ trì
chư thiên cùng tùy hỷ
(76) Do tự lợi lợi tha 
trị nước bằng chánh pháp
nên thấy kẻ dua nịnh 
thì phải trị đúng phép. 
(77) Giả sử mất ngôi vua, 
gặp cảnh ngộ mất mạng
cũng quyết không làm ác, 
không thấy ác bỏ qua. 
(78) Tai hại nặng nề nhất 
cho sự mất ngôi vua 
là toàn vì dua nịnh
do đó phải trị phạt. 
(79) Dua nịnhdối trá 
làm tan nát quốc gia
làm thương tổn vương pháp
như voi vào vườn hoa. 
(80) Thiên chủ tức giận cả, 
a tô la cũng vậy, 
ấy là làm quốc vương 
không trị nước bằng Pháp. 
(81) Thế nên phải đúng phép 
trị phạt những kẻ ác, 
cải hóa bằng điều thiện, 
chứ không theo phi pháp
(82) Thà là mất thân mạng 
không theo bạn phi pháp
với thân với không thân 
bình đẳng nhìn tất cả. 
(83) Làm vị vua chánh pháp 
không thiên vị phe cánh, 
thì tiếng khen"vua pháp" 
vang cả trong ba cõi
(84) Chư thiên ở Đao lợi 
hoan hỷ mà nói rằng 
vị vua nhân loại này 
chính là con của ta. 
(85) Biết thiện hóa quốc dân, 
biết chánh pháp trị nước, 
khuyến hóa thực hành Pháp
sẽ sinh cung điện ta. 
(86) Chư thiên, chư thiên tử, 
cùng bộ chúng tô la, 
do vua hành hóa Pháp 
mà tâm họ hoan hỷ
(87) Chư thiên cùng hoan hỷ 
hộ trì cho vua ấy, 
tinh tú đi đúng ngôi, 
nhật nguyệt không sai độ. 
(88) Gió hòa đúng thời tiết
mưa ngọt thuận thời vụ, 
thóc trái khéo sinh, lớn, 
quốc dân không đói khát
(89) Tất cả hàng chư thiên 
hay ẩn mình cung vua 
cầu chúc cho nhà vua 
quên mình quảng bá Pháp. 
(90) Hãy tôn trọng Pháp bảo 
mà yên vui quốc dân, 
hãy thân thiết Pháp bảo
phước báo tự trang hoàng
(91) Thân quyến thường hoan hỷ 
thường lánh xa ác pháp
đem Pháp giáo dục người 
thì an lạc thường xuyên
(92) Làm cho cả quốc dân 
tu hành mười thiện nghiệp
thì cả nước sung túc
thì quốc gia thanh bình
(93) Vua mà hành hóa Pháp 
thuần hóa kẻ làm ác, 
thì được danh vọng tốt 
lợi lạc quốc dân. 
Bấy giờ đại hội, trong đó có các vị quốc vương, nghe đức Thế tôn nói về chánh pháp quản trị quốc gia của quốc vương xưa, ai cũng được sự tâm đắc hiếm có, cùng đại hoan hỷtin tưởng, tiếp nhậnphụng hành

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31302)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26207)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 27495)
Nội dung kinh này thuyết minh về Như lai tạng, quả đức của Phật. Nói rõ hành giả đoạn trừ phiền não nào, để chứng đắc Nhị thừa quả... HT Thích Đức Niệm dịch
(Xem: 27874)
Sa-môn Gotama từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. - Này các Tỷ-kheo, đó là lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
(Xem: 26687)
Tác phẩm của Tiến sĩ Thích Minh Châu có nhiều khám phá đáng ngạc nhiên. Ông đã chứng minh rằng bản kinh A-hàm (Àgama) bằng chữ Hán và bản kinh bộ Pàli (Pàli Nikàya) này có rất nhiều điểm tương đồng và cũng khá nhiều dị biệt.
(Xem: 31183)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20241)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22877)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30012)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21539)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20210)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 22622)
đệ tử Phật thì nên hết lòng, ngày cũng như đêm, đọc tụngquán niệm về tám điều mà các bậc đại nhân đã giác ngộ... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 20724)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 30263)
Trong thành Vương Xávị cư sĩ tên Hiền Hộ là bực thượng thủ năm trăm vị cư sĩ, các vị nầy đều thọ trì năm giới gìn giữ từ cử chỉ nhỏ nhặt...
(Xem: 28752)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34687)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 44187)
Kinh BÁCH DỤ gồm gần một trăm câu truyện ngụ ngôn đầy sinh độngsúc tích ẩn tàng các giá trị triết lý giáo dục nhân sinh do Đức Phật kể ra để dạy về giáo lýgiáo pháp.
(Xem: 35478)
KINH PHÁP CÚ là cuốn Kinh chọn lọc những lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế. Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ...
(Xem: 22516)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21335)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 20653)
Như Lai nơi nhân địa tu theo tự tánh Viên Giác, chiếu soi bản thể của tự tánh vốn tịch diệt, biết rõ thân tâm thế giới như hoa đốm trên không... Thích Hằng Đạt dịch
(Xem: 24740)
Nguyên văn chữ Hán của Kinh Viên Giác chỉ có hơn mười ba ngàn chữ mà bao gồm tất cả giáo pháp đốn tiệm của thượng cănhạ căn... HT Thích Duy Lực dịch
(Xem: 37869)
Kinh Hoa Nghiêmbộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân, tư tưởngtâm nguyện của Phật.
(Xem: 19008)
Dưới đây là bảng tóm tắt so sánh các bộ Luật Tỳ-kheo hiện đang lưu hành - Bình Anson
(Xem: 19300)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 21781)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0365 - Hán dịch: Lương Da Xá; Việt dịch HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 20851)
CỔ NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích - Việt dịch: Sa-môn THÍCH ÐỔNG MlNH - Nhuận văn và chú thích: Sa-môn THÍCH ÐỨC THẮNG
(Xem: 29496)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35069)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28787)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 32582)
Hết thảy nội dung được đề cập đến trong tập sách này đều được thể hiện một cách vô cùng sáng tạo, linh hoạt, với rất nhiều ví dụ thích hợp luôn luôn đi kèm theo mỗi vấn đề...
(Xem: 26196)
Bốn tâm vô lượng là cõi nước thanh tịnh của Bồ Tát, khi Bồ Tát thành Phật, những chúng sinh thành tựu các đức từ, bi, hỷ, xả sinh về nước ấy... Đoàn Trung Còn, Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 28901)
Nhất thời, Phật tại Tỳ-da-ly, Am-la thọ viên, dữ đại tỳ-kheo chúng bát thiên nhân câu. Bồ Tát tam vạn nhị thiên, chúng sở tri thức.
(Xem: 43104)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 34901)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 43878)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37847)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21312)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 43002)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 48985)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39801)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53757)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36800)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40776)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49703)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47290)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27671)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 27007)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27204)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24059)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20825)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34296)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22439)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25083)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
(Xem: 25800)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 22929)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22454)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21730)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23307)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21147)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant