Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm 20: Vương Pháp Chính Luận

01 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 7757)
Phẩm 20: Vương Pháp Chính Luận

KINH KIM QUANG MINH
(KINH ÁNH SÁNG HOÀNG KIM)
Hoà Thượng Thích Trí Quang Dịch Giải 
Bản Hoa Dịch của Ngài Nghĩa Tịnh

 

Phẩm 20: Vương Pháp Chính Luận

Bấy giờ nữ thần đại địa tên Kiên lao địa thần, ở trong đại hội lại từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ ngang chân đức Thế tôn, chắp tay cung kính mà thưa, bạch đức Thế tôn, trong mọi quốc gia, những người làm quốc vương, nếu khôngchánh pháp thì không thể quản trị quốc gia, an dưỡng quốc dân, bảo đảm bản thân ngồi lâu vương vị. Kính xin đức Thế tôn từ bi thương tưởng, dạy cho con nghe về vương pháp chính luận, chủ yếu của sự quản trị quốc gia. Để cho các vị quốc vương nghe được chánh pháp này thì tuân hành đúng như huấn dụ, đem chánh pháp mà hoá cải quốc dân, làm cho ngôi vua an ninh, quốc dân lợi lạc. Lúc ấy, ở trong đại hội, đức Thế tôn bảo Kiên lao địa thần, địa thần hãy nghe cho kyծ Quá khứquốc vương tên là Lực tôn tràng. Quốc vươngthái tử tên Diệu tràng. Đăng quang không bao lâu, phụ vương bảo Diệu tràng, có vương pháp chính luận tên là Pháp của trời dạy. Trước đây ta đăng quang làm quốc vương, thì phụ vương của ta tên Trí lực tôn tràng đã dạy cho ta chính luận ấy. Ta y theo nên khéo quản trị quốc gia trong hai mươi ngàn năm, ta nhớ không hề mống lên một ý nghĩ làm điều phi pháp. Ngày nay con cũng phải như vậy. Đừng đem điều phi pháp mà quản trị quốc gia. Vương pháp chính luận là gì, con hãy nghe cho khéo, ta sẽ nói cho. Thế rồi quốc vương Lực tôn tràng liền nói cho con về chính luận ấy, bằng những chỉnh cú sau đây.

(1) Tôi nói vương pháp luận 
lợi lạc bao sinh linh
để loại trừ hoài nghi 
loại bỏ lỗi lầm
(2) Tất cả các thiên chủ 
cùng với các nhân vương 
nên sinh tâm hoan hỷ 
chắp tay nghe tôi nói. 
(3) Xưa bộ chúng chư thiên 
họp tại Kim cương sơn
bốn Thiên vương đứng dậy 
xin hỏi Đại phạn vương. 
(4) Đại phạn vương tối tôn 
tự tại nhất chư thiên
xin thương tưởng chúng tôi 
loại trừ giúp hoài nghi
(5) Làm sao ở nhân loại 
mà được gọi là trời? 
lại vì lý do nào 
mà gọi là con trời? 
(6) Tại sao sinh nhân gian 
một mình làm nhân vương? 
rồi sao tại chư thiên 
lại được làm thiên chủ? 
(7) Người hộ vệ thế giới 
hỏi Đại phạn vương rồi, 
Đại phạn vương bấy giờ 
liền nói cho họ nghe. 
(8) Người hộ vệ thế giới
ích lợi bao kẻ 
mà hỏi phép trị nước, 
ta nói, hãy lắng nghe. 
(9) Do lực thiện nghiệp cũ 
sinh thiên làm thiên chủ
lại ở trong nhân loại 
làm quốc vương thống lĩnh. 
(10) Chư thiên cùng da hộ 
mới nhập vào thai mẹ, 
khi ở trong thai mẹ 
chư thiên vẫn giữ gìn
(11) Dẫu sinh trong nhân loại 
tôn hơn nên gọi trời, 
do chư thiên hộ vệ 
nên được gọi con trời. 
(12) Chúa trời Đao lợi thiên 
phân sức giúp nhân vương
và tất cả chư thiên 
cũng giúp sức tự tại
(13) Loại trừ mọi phi pháp 
không cho sinh ác nghiệp
dạy người tu điều thiện 
để họ sinh chư thiên
(14) Nhân loại, a tô la, 
càn thát bà vân vân
la sát, chiên trà la, 
cùng giúp đến nửa sức. 
(15) Cha mẹ giúp nửa sức 
để bỏ ác làm lành, 
chư thiên càng hộ trì 
chỉ cho thấy phước báo
(16) Nếu tạo tác ác nghiệp 
thì ngay trong hiện tại 
chư thiên đã không giúp 
chỉ cho thấy ác báo
(17) Quốc dân tạo ác nghiệp
quốc vương không cấm đoán, 
thế là phi chánh pháp 
không đúng cách trị đuổi. 
(18) Thấy ác mà không chận, 
phi pháp tự tươi lớn, 
thế là trong vương quốc 
gian trá ngày càng nhiều. 
(19) Quốc vương thấy quốc dân 
làm ác mà không ngăn, 
thì chư thiên Đạo lợi 
cùng sinh ra phẫn nộ
(20) Nên quốc chính thương tổn 
dối trá lan khắp nước, 
bị ngoại thù xâm lược 
hủy diệt cả vương quốc. 
(21) Nhà ở với đồ dùng 
tài sản đều tan hoang, 
nịnh và láo đa dạng 
chiếm đoạt hại lẫn nhau. 
(22) Do Pháp mới làm vua, 
mà không tuân hành Pháp, 
quốc dân phải tan rã 
như hồ sen voi dẫm. 
(23) Gió dữ nổi lên mãi, 
mưa dữ đổ trái mùa
yêu tinh lắm biến quái, 
nhật nguyệt thực tối mờ. 
(24) Ngũ cốc cùng hoa quả 
trái hạt đều hư hỏng, 
quốc gia bị đói khát 
vì vua bỏ chánh pháp
(25) Vua mà bỏ chánh pháp 
đem phi pháp dạy dân, 
thì ở cung điện mình 
chư thiên vẫn lo rầu. 
(26) Những vị thiên vương ấy 
cùng nhau nói như vầy
vua mà làm phi pháp
phe ác hùa với nhau
(27) Thì ngôi vua bất an
chư thiên cùng phẫn nộ
chư thiênphẫn nộ
quốc gia ấy bại vong
(28) Giáo dục bằng phi pháp 
lan tràn trong quốc gia
thì đấu tranh gian dối
thì bịnh dịch hoành hành. 
(29) Thiên chủ không hộ vệ
chư thiên khác cũng bỏ, 
quốc gia sẽ diệt vong
quốc vương bị khổ ách
(30) Cha mẹvợ con 
anh em và chị em 
đều bị khổ biệt ly
đến nỗi phải mất mạng
(31) Biến quái và sao sa, 
nóng như hai mặt trời, 
giặc thù đến từ ngoài, 
quốc dân phải tan hoang. 
(32) Đại thần cả nước trọng 
thì chết oan chết uổng, 
đến voi ngựa vân vân 
cũng tản mát sạch không. 
(33) Giặc giã khắp mọi nơi
dân chết vì phi pháp
ác quỉ thì xâm nhập
bịnh dịch thì hoành hành. 
(34) Tối đại thần trong nước, 
cùng các vị phụ tướng, 
lòng đầy những dua nịnh
cùng nhau làm phi pháp
(35) Thấy kẻ làm phi pháp 
mà yêu mến kính nể, 
thấy người làm thiện pháp 
lại hành hạ khổ sở. 
(36) Do yêu nể kẻ ác 
hành hạ người lành, 
nên tinh tú, phong, vũ, 
không còn thuận thời tiết. 
(37) Ba điều xấu ấy sinh 
thì chánh pháp ẩn mất, 
con người hết tươi sáng, 
màu mở đất cũng mất. 
(38) Vì nể ác khinh lành, 
có ba điều xấu nữa: 
sương, mưa đá trái mùa
đói, dịch, cùng lưu hành
(39) Lúa má với trái hạt 
phẩm chất đều tổn giảm, 
thế nên trong quốc gia 
dân đa số bịnh tật. 
(40) Những loại cây thổ sản 
trước đây là ngon ngọt, 
nay vì thế tổn giảm 
đắng chát không ra gì. 
(41) Trước đây lâm viên đẹp, 
toàn chỗ du ngoạn tốt, 
nay bỗng nhiên khô cằn, 
ai thấy cũng lo rầu. 
(42) Lúa, nếp, thứ chắc hạt, 
phẩm chất tiêu mất dần, 
ăn không còn thấy thích, 
làm sao tăng thể lực? 
(43) Dân chúng mất tươi sáng, 
đẹp và khỏe suy tàn
ăn với uống tuy nhiều, 
vẫn không làm sung sức. 
(64) Trong cả quốc gia ấy 
mọi tầng lớp quốc dân 
ít sức, không khoẻ mạnh, 
làm việc không kham năng
(65) Quốc dân nhiều bịnh hoạn 
cơ thể nhiều đau đớn
quỉ mị tràn khắp nơi 
tùy theo sinh la sát
(66) Vua mà làm phi pháp 
thân gần với kẻ ác, 
thì cả ba thế giới (89) 
do vậy suy tổn cả. 
(67) Vô số hiện tượng xấu 
xuất hiện trong quốc gia
toàn do thấy kẻ ác 
bỏ qua, không trị, đuổi. 
(68) Do chư thiên da hộ 
được làm vị quốc vương
mà không đem chánh pháp 
bảo vệ lấy quốc gia
(69) Nhưng người làm điều lành 
thì sẽ sinh chư thiên
còn kẻ làm điều ác 
chết đọa ba đường dữ
(70) Quốc vương mà buông thả 
để quốc dân làm ác, 
thì chư thiên Đao lợi 
nóng bức cả tâm trí
(71) Chư thiên dạy không nghe 
cha mẹ nói không cứ 
thì là người phi pháp 
phi vua phi hiếu tử
(72) Nếu trong quốc gia mình 
thấy ai làm phi pháp
phải trị phạt đúng phép 
không nên bỏ cho qua. 
(73) Thế nên hàng chư thiên 
cùng hộ trì vua ấy, 
vì vua diệt ác pháp 
và theo được thiện pháp
(74) Vua ấy trong đời này 
đón nhận quả báo tốt, 
vì đối với thiện, ác 
biết khuyên dân làm, bỏ. 
(75) Huấn thị thiện ác báo, 
nên làm vị quốc vương
chư thiên cùng hộ trì
chư thiên cùng tùy hỷ
(76) Do tự lợi lợi tha 
trị nước bằng chánh pháp
nên thấy kẻ dua nịnh 
thì phải trị đúng phép. 
(77) Giả sử mất ngôi vua, 
gặp cảnh ngộ mất mạng
cũng quyết không làm ác, 
không thấy ác bỏ qua. 
(78) Tai hại nặng nề nhất 
cho sự mất ngôi vua 
là toàn vì dua nịnh
do đó phải trị phạt. 
(79) Dua nịnhdối trá 
làm tan nát quốc gia
làm thương tổn vương pháp
như voi vào vườn hoa. 
(80) Thiên chủ tức giận cả, 
a tô la cũng vậy, 
ấy là làm quốc vương 
không trị nước bằng Pháp. 
(81) Thế nên phải đúng phép 
trị phạt những kẻ ác, 
cải hóa bằng điều thiện, 
chứ không theo phi pháp
(82) Thà là mất thân mạng 
không theo bạn phi pháp
với thân với không thân 
bình đẳng nhìn tất cả. 
(83) Làm vị vua chánh pháp 
không thiên vị phe cánh, 
thì tiếng khen"vua pháp" 
vang cả trong ba cõi
(84) Chư thiên ở Đao lợi 
hoan hỷ mà nói rằng 
vị vua nhân loại này 
chính là con của ta. 
(85) Biết thiện hóa quốc dân, 
biết chánh pháp trị nước, 
khuyến hóa thực hành Pháp
sẽ sinh cung điện ta. 
(86) Chư thiên, chư thiên tử, 
cùng bộ chúng tô la, 
do vua hành hóa Pháp 
mà tâm họ hoan hỷ
(87) Chư thiên cùng hoan hỷ 
hộ trì cho vua ấy, 
tinh tú đi đúng ngôi, 
nhật nguyệt không sai độ. 
(88) Gió hòa đúng thời tiết
mưa ngọt thuận thời vụ, 
thóc trái khéo sinh, lớn, 
quốc dân không đói khát
(89) Tất cả hàng chư thiên 
hay ẩn mình cung vua 
cầu chúc cho nhà vua 
quên mình quảng bá Pháp. 
(90) Hãy tôn trọng Pháp bảo 
mà yên vui quốc dân, 
hãy thân thiết Pháp bảo
phước báo tự trang hoàng
(91) Thân quyến thường hoan hỷ 
thường lánh xa ác pháp
đem Pháp giáo dục người 
thì an lạc thường xuyên
(92) Làm cho cả quốc dân 
tu hành mười thiện nghiệp
thì cả nước sung túc
thì quốc gia thanh bình
(93) Vua mà hành hóa Pháp 
thuần hóa kẻ làm ác, 
thì được danh vọng tốt 
lợi lạc quốc dân. 
Bấy giờ đại hội, trong đó có các vị quốc vương, nghe đức Thế tôn nói về chánh pháp quản trị quốc gia của quốc vương xưa, ai cũng được sự tâm đắc hiếm có, cùng đại hoan hỷtin tưởng, tiếp nhậnphụng hành

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33322)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6570)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11318)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30423)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30450)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7999)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12226)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12274)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11623)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12859)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34822)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9863)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52289)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10768)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10541)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10733)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10480)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13100)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16310)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21873)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9640)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7141)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10405)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12786)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12809)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16256)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16553)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13883)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16617)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12145)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13858)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14343)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9228)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11769)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11292)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16356)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14373)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16213)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12706)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12100)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11811)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15690)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11530)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14034)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12026)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12683)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 15006)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11978)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13147)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14573)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20747)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13249)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10981)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20737)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14382)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20413)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17679)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 14040)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31872)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12032)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant