Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm 21: Thiện Sinh Luân Vương

01 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 7961)
Phẩm 21: Thiện Sinh Luân Vương

KINH KIM QUANG MINH
(KINH ÁNH SÁNG HOÀNG KIM)
Hoà Thượng Thích Trí Quang Dịch Giải 
Bản Hoa Dịch của Ngài Nghĩa Tịnh

 

Phẩm 21: Thiện Sinh Luân Vương 

Vào lúc bấy giờ, đức Thế tôn vì cả đại hội nói về vương pháp chính luận rồi, lại bảo, đại hội các người nên lắng nghe. Như lai lại nói cho các người về một sự phụng hành chánh pháp xưa kia của Như lai. Ngay lúc ấy đức Thế tôn nói những lời chỉnh cú sau đây.

(1) Như lai xưa kia 
làm vị luân vương
bỏ hết đại địa 
và cả đại dương
đem bao trân bảo 
đầy bốn đại lục 
cung kính hiến cúng 
chư vị Như lai
(2) Như lai xưa kia 
trong vô lượng kiếp
cầu pháp thân 
tối cực chân tịnh
nên bao bảo vật 
đều xả bỏ cả, 
cả đến thân mạng 
cũng không tiếc lẫn. 
(3) Trong thì quá khứ 
khó lường đời kiếp, 
có bậc đẳng giác 
danh hiệu Bảo kế; 
sau khi Ngài đã 
nhập vào niết bàn
có một vị vua 
tên là Thiện sinh
(4) Làm bậc luân vương 
cả bốn đại lục, 
ngoại biên đại dương 
đều qui phục cả; 
vua có hoàng thành 
tên Diệu âm nhạc, 
vua thường cư trú 
nơi hoàng thành ấy. 
(5) Đêm mộng thấy nói 
phước trí Như lai
Thấy có pháp sư 
tên là Bảo tích
ngồi nghiêm trên tòa 
tựa vầng thái dương
diễn giảng kinh mầu 
Ánh sáng hoàng kim
(6) Sau khi tỉnh mộng
vua rất hoan hỷ
nỗi hoan hỷ lớn 
tràn khắp cơ thể. 
Đến lúc trời sáng, 
vua ra hoàng cung
đi đến dà lam 
của chư Bí sô. 
(7) Luân vương tôn kính 
cúng thánh chúng rồi, 
liền hỏi các ngài : 
trong thánh chúng này 
có hay không có 
pháp sư Bảo tích 
thành tựu công hạnh 
hóa độ chúng sinh? 
(8) Bấy giờ Bảo tích
vị đại pháp sư, 
cư trú ở trong 
một cái tịnh thất
chánh niệm trì tụng 
kinh mầu Hoàng kim
trang nghiêm bất động
thân tâm vui đẹp. 
(9) Một vị Bí sô 
hướng dẫn luân vương 
đến chỗ cư trú 
của ngài Bảo tích
thấy trong tịnh thất 
ngài ngồi thẳng mình, 
toàn thân đầy cả 
ánh sáng tướng đẹp. 
(10) Bí sô bảo vua: 
đây, ngài Bảo tích
giữ được hành xứ 
sâu xa của Phật, 
đó là bản kinh 
Ánh sáng hoàng kim
kinh vua các kinh, 
tối thượng bậc nhất. 
(11) Luân vương tức thì 
lạy ngài Bảo tích
cung kính chắp tay 
thỉnh cầu ngài: 
Xin bậc mặt đẹp 
tựa như trăng đầy, 
nói cho con nghe 
diệu pháp Hoàng kim
(12) Pháp sư Bảo tích 
nhận lời thỉnh cầu
hứa sẽ nói cho 
bản kinh vua ấy. 
Thế là khắp cả 
đại thiên thế giới
hết thảy chư thiên 
cùng đại hoan hỷ
(13) Vua dùng một nơi 
rộng rãi sạch sẽ, 
tận lực trang hoàng 
trân bảo quí lạ, 
rưới bụi bằng nước 
hương liệu thượng hạng
rải những bông hoa 
màu sắc đa dạng. 
(14) Nơi đặc biệt này 
vua đặt tòa cao, 
trang hoàng bảo cái 
tràng phan gấm lụa; 
xát hương xoa hương 
với đủ mọi cách, 
hơi thơm tỏa ra 
khắp cả mọi nơi
(15) Thiên, long, tô la, 
khẩn na la
ma hô lạc dà 
cùng với dược xoa
nhất là chư thiên 
rải hoa mạn đà
hiến cúng pháp tòa 
rất cao cả ấy. 
(16) Lại có hàng ngàn 
hàng vạn chư thiên 
ưa nghe chánh pháp 
cùng đến tụ tập
Pháp sư bắt đầu 
rời chỗ ngồi cũ, 
họ đã hiến cúng 
bằng những thiên hoa
(17) Bấy giờ Bảo tích
vị đại pháp sư, 
tắm rửa mình mẩy, 
mặc đồ sạch sẽ, 
đi đến đại hội
lại chỗ pháp tòa
chắp tay chân thành 
kính lễ bái. 
(18) Thiên chủ, thiên chúng
cùng với thiên nữ
chung nhau rải xuống 
thiên hoa mạn đà
trăm ngàn thiên nhạc 
khó nghĩ khó tả, 
ở trong không trung 
xuất ra tiếng mầu. 
(19) Bấy giờ Bảo tích
vị đại pháp sư, 
liền lên pháp tòa 
ngồi xếp bằng
tập trung tâm trí 
nghĩ đến mười phương 
trăm ngàn vạn ức 
bậc Đại từ tôn
(20) Nghĩ đến tất cả 
chúng sinh đau khổ
phát sinh ý niệm 
từ bi bình đẳng
Rồi vì chủ mời 
Thiện sinh vương, 
giảng kinh mầu 
Ánh sáng hoàng kim
(21) Vua đã nghe được 
diệu pháp như vậy, 
thành tâm chắp tay 
nói rằng tùy hỷ
Nghe pháp hiếm có, 
Vua trào nước mắt, 
nỗi mừng lớn lao 
tràn ngập thân tâm
(22) Bấy giờ quốc chúa 
luân vương Thiện sinh
vì muốn hiến cúng 
kinh vua Hoàng kim
nên cầm viên ngọc 
như ý ma ni
nguyện rằng hãy vì 
bao loại chúng sinh
(23) Hãy ngay nơi đây, 
đại lục Thiệm bộ
mưa xuống thất bảo
những xâu chuỗi ngọc
để người nghèo thiếu 
đồ dùng tiền của 
hảy đều tùy ý 
thụ hưởng hạnh phúc
(24) Tức thì thất bảo 
đổ xuống khắp nơi, 
sung mãn dân chúng 
cả bốn đại lục, 
cần gì tùy ý
chuỗi ngọc làm đẹp 
y phục ẩm thực 
không thiếu thứ gì. 
(25) Bấy giờ quốc chúa 
luân vương Thiện sinh 
thấy bốn đại lục 
được mưa trân bảo
thì đem hiến cúng 
Bảo kế như lai
và Bí sô tăng 
theo di huấn Ngài. 
(26) Đại hội nên biết 
luân vương Thiện sinh 
ngày nay chính là 
bản thân Như lai
xưa kia đã bỏ 
cả đại địa này, 
cả bao trân bảo 
đầy bốn đại lục. 
(27) Còn ngài Bảo tích
vị đại pháp sư, 
đã thuyết diệu pháp 
cho Thiện sinh vương, 
diễn giảng kinh vua 
cho nhà vua ấy, 
nay ở hướng đông 
thành đức Bất động
(28) Như lai xưa kia 
lắng nghe kinh vua, 
chắp tay nói rằng 
con xin tùy hỷ
quảng thí thất bảo
do những phước ấy 
được kim cương thân 
tối thắng bậc nhất. 
(29) Thân ấy ánh vàng 
trăm phước trang nghiêm
ai nhìn thấy được 
cũng hoan hỷ cả; 
tất cả chúng sinh 
không ai không thích, 
vô số chư thiên 
cũng thích như vậy. 
(30) Như lai trải qua 
chín mươi chín lần 
vô số đời kiếp 
làm vị luân vương
hoặc làm quốc vương 
cho những tiểu quốc 
cũng đến số lượng 
trăm ngàn đời kiếp. 
(31) Trong vô lượng kiếp 
lại làm Đế thích
và cũng đã làm 
bậc Đại phạn vương, 
hiến cúng Thập lực 
đại từ thế tôn 
số lượng đời kiếp 
cũng khó biết hết. 
(32) Như lai xưa kia 
nghe kinh, tùy hỷ
khối phước có được 
số lượng khó biết; 
do khối phước ấy 
được vô thượng giác
được pháp tánh thân 
diệu trí chân thường
Bấy giờ đại hội nghe sự tuyên thuyết như vậy ai cũng than là hiếm có. Ai cũng nguyện phụng trì kinh vua Ánh sáng hoàng kim, quảng bá bất tuyệt.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29889)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27171)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21764)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22225)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23602)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20426)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20047)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21945)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24738)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18983)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24736)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30970)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23980)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27760)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26505)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21300)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23214)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38119)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18799)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18430)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19951)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19038)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23143)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23867)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22786)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22905)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29561)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20634)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18707)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15845)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18848)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19646)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20148)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19950)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18111)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22919)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34161)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16410)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16915)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39234)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26055)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20095)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18844)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24050)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29109)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22899)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30943)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 20998)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26849)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20670)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26250)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23318)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19816)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24668)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30023)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20214)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20400)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15143)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15826)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23867)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant