Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

5. Phẩm Văn Thù Sư Lợi

07 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 6751)
5. Phẩm Văn Thù Sư Lợi

Phật Lịch 2514
KINH DUY-MA-CẬT

Đời Diêu Tần, ngài Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập 
vưng chiếu dịch ra chữ Trung Hoa
Dịch giả: Thích Huệ Hưng 
Dương Lịch 1970

 

V PHẨM VĂN THÙ SƯ LỢI (1)

Thăm bịnh

Lúc bấy giờ, Phật bảo Văn Thù Sư Lợi
- Ông đi đến thăm bịnh ông Duy Ma Cật

Văn Thù Sư Lợi bạch Phật
- Bạch Thế Tôn ? Bực Thượng nhơn kia khó bề đối đáp, vì ông ấy rất thâm đạt thật tướng, khéo nói pháp mầu, trí tuệ vô ngại, biện tài thông suốt, rõ thấu phương pháp tu trì của tất cả Bồ Tát, thâm nhập kho tạng bí mật của Chư Phật, hàng phục các ma, thần thông tự tại và trí tuệ phương tiện đều đặng rốt ráo. Tuy thế, con xin vưng thánh chỉ của Phật đến thăm bịnh ông. 

Lúc ấy, trong Đại chúng các hàng Bồ Tát và hàng Đại đệ tử, Đế Thích, Phạm thiên, Tứ thiên vương đều nghĩ rằng : “Hôm nay hai vị dại sĩ : Văn Thù Sư LợiDuy Ma Cật cùng nhau đàm luận tất nói pháp mầu”. Tức thời, tám nghìn Bồ Tát, năm trăm Thanh Văn và trăm nghìn Thiên nhơn đều muốn đi theo

Bấy giờ, Văn Thù Sư Lợi cùng các Bồ Tát, Đại đệ tử và các hàng Thiên nhơn cung kính đoanh vây đi vào đại thành Tỳ Da Ly. 

Lúc ấy, Trưởng giả Duy Ma Cật thầm nghĩ : “Nay đây Ngài Văn Thù Sư Lợi cùng đại chúng đồng đến viếng thăm”. Ông liền dùng sức thần thông làm cho trong nhà trống rỗng, không có vật chi và cũng không có người thị giả nào, chỉ để một chiếc giường cho ông nằm bịnh. 

Ngài Văn Thù Sư Lợi vào nhà ông Duy Ma Cật rồi, thấy trong nhà trống rỗng không có vật chi, chỉ có một mình ông nằm trên giường mà thôi. Khi ấy ông Duy Ma Cật chào rằng : 
- Quí hóa thay ! Ngài Văn Thù Sư Lợi mới đến ! Tướng không đến mà đến, tướng không thấy mà thấy. 

Ngài Văn Thù Sư Lợi nói : 
- Phải đấy, Cư sĩ ! Nếu đã đến tức là không đến, nếu đã đi tức là không đi. Vì sao ? - Đến không từ đâu đến, đi không đến nơi đâu, hễ có thấy tức là không thấy. Thôi việc ấy hãy để đó. - Cư sĩ bịnh có chịu nổi được không ? Điều trị có bớt không ? Bịnh không đến nỗi tăng ư ? Thế Tôn ân cần hỏi thăm chi xiết. Bịnh Cư sĩ nhơn đâu mà sanh, sanh đã bao lâu phải thế nào mới mạnh được ?. . . 

Ông Duy Ma Cật đáp : 
- Từ nơi si mà có ái, bịnh tôi sanh. Vì tất cả chúng sanh bịnh, nên tôi bịnh. Nếu tất cả chúng sanh không bịnh, thì bịnh tôi lành. Vì sao ? - Bồ Tátchúng sanh mà vào đường sanh tử, hễ có sanh tử thời có bịnh, nếu chúng sanh khỏi bịnh thì Bồ Tát không có bịnh. Ví như ông Trưởng giả chỉ có một người con, hễ người con bịnh, thì cha mẹ cũng bịnh, nếu bịnh của con lành, cha mẹ cũng mạnh. Bồ Tát cũng thế ? Đối với tất cả chúng sanh, thương mến như con, nên chúng sanh bịnh, Bồ Tát cũng bịnh, chúng sanh lành, Bồ Tát cũng lành - Ngài lại hỏi bịnh ấy nhơn đâu mà sanh ? - Bồ Tát có bịnh là do lòng đại bi

Ngài Văn Thù Sư Lợi hỏi : 
- Cư sĩ ? Nhà này vì sao trống không và không có thị giả

Ông Duy Ma Cật đáp : 
- Cõi nước của chư Phật cũng đều không. 
- Lấy gì làm không ? 
- Lấy không làm không. 
- Đã không, cần gì phải không ? 
- Vì không phân biệt, nên không. 
- Không, có thể phân biệt được ư ? 
- Phân biệt cũng không. 
- Không, phải tìm nơi đâu ? 
- Phải tìm trong sáu mươi hai món kiến chấp (2). 
- Sáu mươi hai món kiến chấp phải tìm nơi đâu ? 
- Phải tìm trong các pháp giải thoát của chư Phật. 
- Pháp giải thoát của chư Phật phải tìm nơi dâu ? 
- Phải tìm nơi tâm hạnh của tất cả chúng sanh (3). 
- Ngài lại hỏi vì sao không thị giả
- Tất cả chúng ma và các ngoại đạo đều là thị giả của tôi. Vì sao ? Vì các ma ưa sanh tử, mà Bồ Tát ở nơi sanh tử không bỏ. Còn ngoại đạo ưa các kiến chấp, mà Bồ Tát ở nơi các kiến chấp không động. 

Ngài Văn Thù Sư Lợi hỏi : 
- Bịnh của Cư sĩ tướng trạng thế nào ? 

Ông Duy Ma Cật đáp : 
- Bịnh của tôi không hình, không tướng, không thể thấy được. 
- Bịnh ấy hiệp với thân hay hiệp với tâm ? 
- Không phải hiệp với thân, vì thân tướng vốn lìa; cũng không phải hiệp với tâm, vì tâm như huyễn
- Địa đại, thủy đại, phong đại, hỏa đại, trong bốn đại bịnh về đại nào ? 
- Bịnh ấy không phải địa đại, cũng không lìa địa đại ; thủy, hỏa, phong đại cũng như thế. Nhưng bịnh của chúng sanh là từ nơi tứ đại mà khởi, vì chúng sanh bịnh nên tôi có bịnh. 

Khi ấy Ngài Văn Thù Sư Lợi hỏi ông Duy Ma Cật
- Phàm Bồ Tát an ủi Bồ Tát có bịnh như thế nào ? 

Ông Duy Ma Cật đáp : 
- Nói thân vô thường, không nói nhàm chán thân. Nói thân có khổ, không nói ưa thích Niết bàn. Nói thân vô ngã mà khuyên dạy dắt dìu chúng sanh. Nói thân không tịch, không nói là rốt ráo tịch diệt. Nói ăn năn tội trước, không nói vào nơi quá khứ (4). Lấy bịnh mình mà thương bịnh người. Phải biết cái khổ vô số kiếp trước, phải nghĩ sự lợi ích cho tất cả chúng sanh, nhớ đến việc làm phước, tưởng đến sự sống trong sạch, chớ nên sanh tâm buồn rầu, phải thường khởi lòng tinh tấn, nguyện sẽ làm vị y vương điều trị tất cả bịnh chúng sanh. Bồ Tát phải an ủi Bồ Tát có bịnh như thế để cho được hoan hỷ

Ngài Văn Thù Sư Lợi hỏi : 
- Cư sĩ ! Bồ Tát có bịnh phải điều phục tâm mình như thế nào ? 

Ông Duy Ma Cật đáp : 
- Bồ Tát có bịnh phải nghĩ thế này : ta nay bịnh đây đều từ các món phiền não, điên đảo vọng tưởng đời trước sanh ra, là pháp không thật có, lấy ai chịu bịnh đó. Vì sao ? Vì tứ đại hòa hợp giả gọi là thân, mà tứ đại không chủ, thân cũng không ngã. Lại nữa, bịnh này khởi ra đều do chấp ngã (5), vì thế ở nơi ngã không nên sanh lòng chấp đắm. Đã biết gốc bịnh, trừ ngay ngã tưởng (6) và chúng sanh tưởng (7), phải khởi pháp tưởng (8). Nên nghĩ rằng : “Thân này chỉ do các pháp hiệp thành, khởi chỉ là pháp khởi, diệt chỉ là pháp diệt. Lại các pháp ấy đều không biết nhau, khi khởi không nói nó khởi, khi diệt không nói nó diệt.” Bồ Tát có bịnh muốn trừ diệt pháp tưởng phải nghĩ rằng : “Pháp tưởng này cũng là điên đảo, điên đảo tức là bịnh lớn, ta nên xa lìa nó” – Thế nào là xa lìa ? Lìa ngã và ngã sở – Thế nào là lìa ngã và ngã sở? Là lìa hai pháp – Thế nào là lìa hai pháp ? Là không nghĩ các pháp trong, ngoài (9), mà thật hành theo bình đẳng – Sao gọi bình đẳng ? Là ngã bình đẳng, Niết bàn bình đẳng. Vì sao ? Ngã và Niết bàn hai pháp này đều không – Do đâu mà không ? Vì do văn tự nên không. Như thế, hai pháp không có tánh quyết định. Nếu đặng nghĩa bình đẳng đó, thì không có bịnh chi khác, chỉ còn có bịnh Không, mà bịnh Không cũng không nữa. Vị Bồ Tát có bịnh dùng tâm không thọ mà thọ các món thọ, nếu chưa đầy đủ Phật pháp cũng không diệt thọ mà thủ chứng (10), (như Nhị thừa). Dù thân có khổ, nên nghĩ đến chúng sanh trong ác thúkhởi tâm đại bi. Ta đã điều phục được tâm ta, cũng nên điều phục cho tất cả chúng sanh. Chỉ trừ bịnh (chấp) mà không trừ pháp, dạy cho dứt trừ gốc bịnh – Sao gọi là gốc bịnh ? Nghĩa là có phan duyên, do có phan duyên mà thành gốc bịnh. Phan duyên nơi đâu? Ở trong ba cõi – Làm thế nào đoạn phan duyên ? Dùng vô sở đắc; nếu vô sở đắc thì không có phan duyên – Sao gọi là vô sở đắc ? Nghĩa là ly hai món chấp – Sao gọi là hai món chấp ? Nghĩa là chấp trong và chấp ngoài (11); ly cả hai đó là vô sở đắc – Ngài Văn Thù Sư Lợi ! Đó là Bồ Tát có bịnh, điều phục tâm mình để đoạn các khổ : già, bịnh, chết là Bồ Đề của Bồ Tát. Nếu không như thế chỗ tu hành của mình không được trí tuệ thiện lợi. Ví như người chiến thắng kẻ oán tặc mới là dõng, còn vị nào trừ cả già, bịnh, chết như thế mới gọi là Bồ TátBồ Tát có bịnh nên nghĩ thêm thế này : “Như bịnh của ta đây, không phải là thật, không phải có; bịnh của chúng sanh cũng không phải thật, không phải có”. Khi quán sát như thế, đối với chúng sanh nếu có khởi lòng đại bi ái kiến (12) thì phải bỏ ngay. Vì sao ? –Bồ Tát phải trừ dứt khách trần phiền não (13) mà khởi đại bi, chớ đại bi ái kiến đối với sanh tử có tâm nhàm chán, nếu lìa được ái kiến thì không có tâm nhàm chán, sanh ra nơi nào không bị ái kiến che đậy, không còn bị sự ràng buộc, lại nói pháp cởi mở sự ràng buộc cho chúng sanh nữa. Như Phật nói : “Nếu mình trói mà mở trói cho người khác, không thể được; nếu mình không bị trói mới mở trói cho người khác được”. Vì thế, Bồ Tát không nên khởi những sự ràng buộc – Sao gọi là ràng buộc ? Sao gọi là giải thoát ? Tham đắm nơi thiền vịBồ Tát bị ràng buộc. Dùng phương tiện thọ sanh là Bồ Tát được giải thoát. Lại không có phương tiện huệ thì buộc, có phương tiện huệ thì giải, không huệ phương tiện thì buộc, có huệ phương tiện thì giải. Sao gọi không có phương tiện thì buộc ? Bồ Tát dùng ái kiến trang nghiêm Phật độ, thành tựu chúng sanh, ở trong pháp “không, vô tướng, vô tác” mà điều phục lấy mình, đó là không có phương tiện huệ thì buộc – Sao gọi có phương tiện huệ thì giải ? Bồ Tát không dùng ái kiến trang nghiêm Phật độ, thành tựu chúng sanh, ở trong pháp “không, vô tướng, vô tác”, điều phục lấy mình, không nhàm chán mõi mệt, đó là có phương tiện huệ thì giải – Sao gọi là không có huệ phương tiện thì buộc ? Bồ Tát trụ nơi các món phiền não, tham dục, sân hận, tà kiến v.v... mà trồng các cội công đức, đó là không có huệ phương tiện thì buộc – Sao gọi có huệ phương tiện thì giải ? Là xa lìa các thứ phiền não, tham dục, sân hận, tà kiến v.v... mà vun trồng các cội công đức, hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đó là có huệ phương tiện thì giải – Ngài Văn Thù Sư Lợi ! Bồ Tát có bịnh đấy phải quán sát các pháp như thế (quán phi chơn, phi hữu...). Lại nữa, quán thân vô thường, khổ, không, vô ngã, đó là “huệ”. Dù thân có bịnh vẫn ở trong sanh tử làm lợi ich chúng sanh không nhàm mõi, đó là “phương tiện”. Lại nữa quán thân : thân không rời bịnh, bịnh chẳng rời thân, bịnh này, thân này, không phải mới, không phải cũ, đó là “huệ”. Dù thân có bịnh mà không nhàm chán trọn diệt độ, đó là “phương tiện”. 

- Ngài Văn Thù Sư Lợi ! Bồ Tát có bịnh nên điều phục tâm mình như thế, mà không trụ trong đó, cũng không trụ nơi tâm không điều phục. Vì sao? Nếu trụ nơi tâm không điều phục là pháp của phàm phu, nếu trụ nơi tâm điều phục là pháp của Thanh Văn, cho nên Bồ Tát không nên trụ nơi tâm điều phục hay không điều phục, lìa hai pháp ấy là hạnh Bồ Tát. Ở trong sanh tử mà không bị nhiễm ô, ở nơi Niết bàn mà không diệt độ hẳn là hạnh Bồ Tát. Không phải hạnh phàm phu, không phải hạnh Hiền thánh là hạnh Bồ Tát. Không phải hạnh nhơ, không phải hạnh sạch là hạnh Bồ Tát. Tuy vượt khỏi hạnh ma mà hiện các việc hàng phục ma là hạnh Bồ Tát. Cầu nhứt thiết trí, không cầu sái thời (14) là hạnh Bồ Tát. Dù quán các pháp không sanh mà không vào chánh vị (chơn như) là hạnh Bồ Tát. Quán mười hai duyên khởi(15) mà vào các tà kiến là hạnh Bồ Tát. Nhiếp độ tất cả chúng sanh mà không mê đắm chấp trước là hạnh Bồ Tát. Ưa xa lìa mà không nương theo sự dứt đoạn thân tâm là hạnh Bồ Tát. Tuy ở trong ba cõi mà không hoại pháp tánh là hạnh Bồ Tát. Tuy quán “không” mà gieo trồng các cội công đức là hạnh Bồ Tát. Dù thật hành vô tướngcứu độ chúng sanh là hạnh Bồ Tát. Dù thật hành vô tácquyền hiện thọ thân là hạnh Bồ Tát. Dù thật hành vô khởi (16) mà khởi tất cả hạnh lành là hạnh Bồ Tát. Dù thật hành sáu pháp ba la mật (l7) mà biết khắp các tâm, tâm sở của chúng sanh là hạnh Bồ Tát. Dù thật hành sáu pháp thần thông mà không dứt hết lậu hoặc(18) (phiền não) là hạnh Bồ Tát. Dù thật hành bốn tâm vô lượng mà không tham đắm sanh về cõi Phạm Thế (Phạm thiên) là hạnh Bồ Tát. Dù thật hành thiền định, giải thoát, tam muội, mà không theo thiền định thọ sanh là hạnh Bồ Tát. Dù thật hành bốn pháp niệm xứ mà không hoàn toàn lìa hẳn thân, thọ, tâm, pháp là hạnh Bồ Tát. Dù thật hành bốn pháp chánh cần mà không rời thân tâm tinh tấn là hạnh Bồ Tát. Dù thật hành bốn pháp như ý túc mà đặng thần thông tự tại là hạnh Bồ Tát. Dù thật hành năm căn mà phân biệt rành rẽ các căn lợi độn của chúng sanh là hạnh Bồ Tát. Dù thật hành năm lực mà ưa cầu thập lực của Phật là hạnh Bồ Tát. Dù thật hành bảy pháp giác chiphân biệt rõ rệt trí tuệ của Phật là hạnh Bồ Tát. Dù thật hành tám pháp chánh đạo mà ưa tu vô lượng Phật đạo là hạnh Bồ Tát. Dù thật hành các pháp chỉ quán trợ đạo mà trọn không thiên hẳn nơi tịch diệt (Niết bàn) là hạnh Bồ Tát. Dù thật hành các pháp bất sanh bất diệt, mà dùng tướng hảo trang nghiêm thân mình là hạnh Bồ Tát. Dù hiện oai nghi theo Thanh Văn, Duyên Giác mà không rời Phật pháp là hạnh Bồ Tát. Dù tùy theo tướng hoàn toàn thanh tịnh của các pháp mà tùy theo chỗ sở ứng hiện thân là hạnh Bồ Tát. Dù quán sát cõi nước của chư Phật trọn vắng lặng như hư khônghiện ra rất nhiều cõi Phật thanh tịnh là hạnh Bồ Tát. Dù chứng đặng quả Phật, chuyển Pháp luân, nhập Niết bàn mà không bỏ đạo Bồ Tát là hạnh Bồ Tát vậy. 

Khi ông Duy Ma Cật nói những lời ấy rồi, cả đại chúng đi theo ngài Văn Thù Sư Lợi, trong đó tám nghìn vị Thiên tử đều phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác

Chú thích của phẩm V

1. Văn Thù Sư Lợi : (Manjusri) Tàu dịch là Diệu Đức, nghĩa là đầy đủ ba đức lớn : 1)Tín, 2)Hạnh, 3)Trí. Ngài chứng đặng thật trí, liễu ngộ Phật tánh, thông đạt chỗ huyền bí của các pháp, nên đứng đầu trong hàng môn sanh của Phật. 

2. 62 món kiến chấp : Đã giải ở phẩm III số 43. 

3. Tìm nơi tâm hạnh của chúng sanh : Ý nói giải thoát triền phược đồng một chơn tánh, nên không phải ngoài vọng có chơn, ngoài phàm phu triền phược mà có chư Phật giải thoát

4. Vào nơi quá khứ : Ý nói an ủi vị Bồ Tát có bịnh ăn năn lỗi trước, nhưng không nói lỗi ấy có thật tánh thường còn đi vào nơi quá khứ, vì muốn phá trừ các tướng chấp thường kia. 

5. Chấp ngã : Quan niệm thân tâm là thật. 

6. Ngã tưởng : vọng tưởng so đo suy nghĩ cho thân tâm có cái chủ tể thường còn chơn thật. 

7. Chúng sanh tưởng : vọng tưởng cố chấp cho chúng sanh là thực có. 

8. Pháp tưởng : Tưởng niệm các pháp do nhơn duyên hợp thành, không tự chủ, không thật có. 

9. Pháp trong và ngoài : Là căn, trần, hay tâm, cảnh. 

10. Diệt thọ thủ chứng : Nhập diệt tận định, dứt hết các tâm niệm tư tưởng xúc, thọ để chứng lấy cảnh Niết bàn an vui. Tức lối cầu chứng của hàng Nhị thừa, vì thấy cảnh vật phiền tạp, chúng sanh vô số điên đảo khó bề giáo hóa chuyển đổi được, nên lánh vào cảnh giới an lặng riêng vui. 

11. Chấp trong và chấp ngoài : Trong là vọng tưởng, ngoài là các pháp. Cả hai đều là hư vọng giả dối, nên trọn không chỗ đặng. 

12. Đại bi ái kiến : Là thấy có chúng sanh khổ sanh tâm ái trước, mà khởi lòng đại bi ra sức tế độ. Đó là các hàng Bồ Tát quyền thừa chưa dứt trừ phiền não, còn mê sự mê lý, mà vận lòng từ bi ra cứu độ chúng sanh nên còn chấp tướng người bị độ, mình hay độ, thường sanh ra tư tưởng nhàm chán mỏi mệt. 

13. Khách trần phiền não : Phiền não tánh cách nó không chơn thật thường hằng, khi khởi khi diệt, cũng như người khách thường qua lại đó đây, không phải thường an trú như chủ gia; lại nó như bụi trần thường xao động luôn, không đứng lặng như hư không, gọi là khách trần phiền não

14. Không cầu sái thời : Chưa được nhứt thiết trí mà cầu chứng bản thể trung đạo là cầu sái thời, nếu trái lại là không cầu sái thời.

15. Mười hai duyên khởi : Tức là 12 nhơn duyên phối hợp sanh khởi các pháp : 
1) Vô minh : không rõ được bổn tánh. 
2) Hành : Hành nghiệp là những nghiệp lực phiền não trong tâm niệm
3) Thức : chỉ cho A lại da thức
4) Danh sắc : các cảm giác tư tưởng về phần tâm và các căn về hình sắc
5) Lục nhập : Sáu căn nhập với sáu trần
6) Xúc : Sáu căn xúc đối sáu trần
7) Thọ : Lãnh nạp những cảnh tốt xấu khổ vui. 
8) Ái : Tham mến những vật tốt đẹp
9) Thủ : Đắm trước tham cầu những cảnh ngũ trần.
10) Hữu : vì sự tham cầu nên tạo những nghiệp nhân thiện, ác, phải chịu quả báo trong ba cõi
11) Sanh : Do nghiệp nhân thiện, ác, nên phải thọ sanh trong sáu đường
12) Lão tử : Sau khi thọ sanh, thân ngũ ấm lần lần già chết. 

16. Vô khởi : Cũng gọi là Vô sanh. Quán các pháp như huyễn như hóa, không có cái nhơn sanh khởi

17. Sáu pháp Ba la mật
1) Bố thí
2) Trì giới
3)Nhẫn nhục
4) Tinh tấn
5) Thiền định
6) Trí tuệ

18. Lậu hoặc : Các phiền não mê lầm làm cho rơi lọt trong 3 cõi.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14775)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11837)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12770)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10353)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 12071)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15302)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11090)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10550)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12484)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16437)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14321)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11802)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14816)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12041)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16864)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11594)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12742)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11350)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12066)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52168)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15475)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13976)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11450)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13191)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12793)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13229)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17924)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12462)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12658)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54217)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14437)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9937)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13830)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 58000)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14515)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20157)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13797)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15415)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17504)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13324)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11939)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13497)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14676)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12500)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12161)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 12073)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13296)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12548)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13672)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13337)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25614)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12188)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14565)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11870)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42085)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28355)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38829)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14732)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12709)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16254)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant