Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

8. Phẩm Phật Đạo

07 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 6530)
8. Phẩm Phật Đạo

Phật Lịch 2514
KINH DUY-MA-CẬT

Đời Diêu Tần, ngài Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập 
vưng chiếu dịch ra chữ Trung Hoa
Dịch giả: Thích Huệ Hưng 
Dương Lịch 1970

 

VIII PHẨM PHẬT ĐẠO (1)

Bấy giờ Ngài văn Thù Sư Lợi hỏi ông Duy Ma Cật rằng : 
- Bồ Tát thế nào là thông đạt Phật đạo
- Bồ Tát thật hành phi đạo(2) (trái đạo) là thông đạt Phật đạo
- Lại hỏi : Thế nào là Bồ Tát thật hành Phi đạo
- Nếu Bồ Tát gây năm tội vô gián(3) mà không buồn giận, đến ở trong địa ngục mà không có tội cấu; đến trong loài súc sanh mà không có những lỗi vô minh kiêu mạn; đến trong ngạ quỉ mà vẫn đầy đủ công đức; đến cảnh Sắc và Vô Sắc giới mà không cho là thù thắng; hiện làm tham dục mà không nhiễm đắm; hiện làm giận dữ mà đối với chúng sanh không có ngại gì; hiện cách ngu si mà dùng trí tuệ điều phục tâm mình; hiện làm hạnh tham lam bỏn sẻn mà bỏ tất cả của cải, không tiếc thân mạng; hiện phá giới cấm mà ở trong tịnh giới, đến như tội bé nhỏ cũng hết lòng sợ sệt; hiện làm giận dũi mà thường từ bi, nhẫn nhục; hiện làm lười biếng mà siêng tu các công đức; hiện làm loạn ý mà thường niệm định; hiện làm ngu sithông đạt trí tuệ thế gianxuất thế gian; hiện làm dua dối mà phương tiện thuận theo nghĩa các kinh; hiện làm kiêu mạn mà đối với chúng sanh mình cũng như cầu, đò(4); hiện làm tất cả phiền não mà lòng thường thanh tịnh; hiện vào trong chúng ma mà thuận theo trí tuệ của Phật, không theo đạo giáo khác; hiện làm hàng Thanh Văn mà nói các pháp chưa từng nghe cho chúng sanh; hiện vào hàng Bích Chi Phậtthành tựu lòng đại bi, giáo hóa chúng sanh; hiện vào hạng nghèo nàn mà có tay đầy đủ của công đức; hiện vào hạng tàn tật mà đủ tướng tốt để trang nghiêm thân mình; hiện vào hạng hèn hạ mà sanh trong giòng giống Phật, đầy đủ các công đức; hiện vào hạng người ốm yếu xấu xa mà được thân Na-la-diên (kim cang), tất cả chúng sanh đều muốn xem; hiện vào hạng già bịnh mà đoạn hẳn gốc bịnh, không còn sợ chết; hiện làm hạng giàu có mà xem là vô thường, không có tham đắm; hiện có thê thiếp, thế nữ mà tránh xa bùn lầy ngũ dục; hiện nơi hạng đần độnthành tựu biện tài, vẫn giữ tổng trì; hiện vào tà tế(5) mà dùng chánh tế độ chúng sanh; hiện vào khắp các đạo, để đoạn dứt nhơn duyên; hiện vào Niết bàn mà không bỏ sanh tử. Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi ? Nếu Bồ Tát làm được những việc trái đạo như thế, đấy là thông suốt Phật đạo

Bấy giờ, ông Duy Ma Cật hỏi Ngài Văn Thù Sư Lợi rằng : 
- Thế nào là hột giống Như Lai
Ngài Văn Thù Sư Lợi nói : 
- Có thân là hột giống; vô minh có ái là giống; tham, sân, si là giống; 4 món điên đảo(6) là giống; 5 món che ngăn là giống; 6 nhập là giống ; 7 chỗ thức(7) là giống; 8 pháp tà(8) là giống; 9 món não(9) là giống; 10 điều bất thiện là giống; nói tóm lại 62 món tà kiến và tất cả phiền não đều là giống Phật cả. 

Ông Duy Ma Cật hỏi : 
- Tại sao thế ? 
- Nếu người thấy vô vi mà vào chánh vị (Niết bàn) thời không thể còn phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác nữa. Ví như chỗ gò cao không thể sinh hoa sen, mà nơi bùn lầy thấp ướt mới có hoa sen. Như thế, người thấy vô vi, vào chánh vị không còn sanh trong Phật pháp được, mà ở trong bùn lầy phiền não mới có chúng sinh nghĩ đến Phật pháp mà thôi. Lại như gieo hột giống trên hư không thì không sinh được, ở đất phân bùn mới tốt tươi được. Như thế, người đã vào vô vi chánh vị không sanh được trong Phật pháp, kẻ khởi ngã kiến như núi Tu Di còn có Thể phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác mà sinh trong Phật pháp. Cho nên phải biết tất cả phiền não là giống Như Lai. Ví như không xuống bể cả, không thể đặng bảo châu vô giá, cũng như không vào biển cả phiền não thời làm sao mà có ngọc báu “nhứt thiết trí”. 

Lúc bấy giờ Ngài Đại Ca Diếp khen rằng : 
- Hay thay ! Hay thay ! Ngài Văn Thù Sư Lợi, lời nói thích quá. Thật đúng như lời Ngài nói những bọn trần lao là giống Như Lai. Hôm nay, chúng tôi không còn kham phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Đến như người đủ 5 tội vô gián còn có thể phát ý mong sanh trong Phật pháp, mà nay chúng tôi hoàn toàn không phát được. Ví như những người 5 căn(10) đã hư, đối với 5 món dục lạc chẳng còn cảm xúc. Cũng như hàng Thanh Văn đã đoạn hết kiết sử, ở trong Phật pháp không còn có lợi ích gì mấy, bởi không còn có chí nguyện

Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi ! Vì thế nên phàm phu ở trong Phật pháp còn có ảnh hưởng, mà hàng Thanh Văn thời không. Vì sao ? Vì phàm phu nghe Phật nói pháp khởi được đạo tâm vô thượng, chẳng đoạn Tam bảo, còn chính như Thanh Văn trọn đời nghe Phật pháp : 10 lực, 4 món vô úy v.v. . . mà hoàn toàn cũng không phát được đạo tâm vô thượng

Trong chúng hộiBồ Tát tên Phổ Hiện Sắc Thân hỏi ông Duy Ma Cật rằng : 
- Cư sĩ ! Cha mẹ , vợ con, thân bằng quyến thuộc, những người tri thức là ai ? Tôi tớ, trai bạn, voi ngựa, xe cộ ở đâu ? 

Ông Duy Ma Cật dùng bài kệ đáp rằng : 

Trí độ(11) mẹ Bồ Tát
Phương tiện ấy là cha,
Đạo sư tất cả chúng, 
Đều do đấy sanh ra. 
Pháp hỷ(12) Chính là vợ, 
Tâm từ bi là gái, 
Tâm thành thực là trai, 
Rốt ráo vắng lặng : nhà. 
Trần lao(13) là đệ tử
Tùy ý mà sai sử, 
Đạo phẩm (14) vốn bạn lành . 
Do đấy thành chánh giác
Các độ(15) là pháp lữ
Tứ nhiếp là kỹ nữ. 
Ca ngâm tụng lời pháp, 
Lấy đó làm âm nhạc
Vườn tược ấy tổng trì(16), 
Cây rừng, pháp vô lậu
Hoa, giác ý(17) sạch mầu, 
Trái, giải thoát trí tuệ
Bát giải (thoát)(18) là ao tắm, 
Nước định lặng trong đầy, 
Rải bảy thứ tịnh hoa(19), 
Để tắm người không nhơ. 
Ngũ thông (20), voi, ngựa chạy, 
Đại thừa là xe cộ, 
Cầm cươngnhất tâm
Dạo chơi đường bát chánh(21). 
Tướng đủ nghiêm mặt mày, 
Các tốt trau hình dáng
Hổ thẹn làm thượng phục(22), 
Thâm tâm làm tràng hoa
Giàu có bảy của báu(23) 
Dạy bảo để thêm lợi, 
Như lời nói tu hành
Hồi hướng làm lợi lớn. 
Tứ thiền làm giường ghế, 
Từ tịnh mạng sanh ra, 
Học rộng thêm trí tuệ
Đó là tiếng tự giác
Món ăn : pháp cam lồ
Nước uống : vị giải thoát
Tắm rửa sạch tịnh tâm
Hương thoa là giới phẩm
Trừ dẹp giặc phiền não
Mạnh mẽ không ai hơn, 
Hàng phục bốn thứ ma(24) 
Phướng tốt dựng đạo tràng
Tuy biết không sanh diệt
Vì dạy chúng, có sanh, 
Khắp hiện vào các cõi, 
Như mặt nhựt, đều thấy. 
Cúng dường khắp mười phương
Không lường ức Như Lai
Chư Phật và thân mình, 
Không có tưởng phân biệt
Dầu biết các cõi Phật
Với chúng sanh đều không, 
Mà thường tu Tịnh độ
Dạy dỗ cho quần sanh
Bao nhiêu loài hữu tình
Oai nghi cùng hình, tiếng, 
Bồ Tát lực, vô úy
Đồng thời đều khắp hiện. 
Rõ biết các việc ma, 
Mà hiện theo hạnh nó. 
Dùng trí phương tiện khéo
Tùy ý đều hay hiện, 
Hoặc hiện già, bịnh, chết, 
Thành tựu cho chúng sanh
Rõ biết như huyễn hóa, 
Thông suốt không ngăn ngại. 
Hoặc hiện kiếp cháy tan, 
Đại địa đều trống rỗng, 
Những người có tưởng “thường”, 
Soi thấy rõ vô thường
Vô số ức chúng sanh
Đều đến thỉnh Bồ Tát
Đồng thời đến nhà kia, 
Dạy cho về Phật đạo
Kinh sách, cấm, chú thuật
Các nghề nghiệp khéo léo, 
Đều hiện làm việc ấy, 
Lợi ích cho quần sanh
Các đạo pháp thế gian
Nương đấy mà xuất gia
Để giải mê cho người, 
Mà chẳng đọa tà kiến 
Làm Nhựt, Nguyệt thiên tử, 
Làm Phạm Vương, chủ, chúa, 
Hoặc khi làm đất nước, 
Hoặc lại làm gió lửa. 
Vào kiếp có tật dịch, 
Hiện làm các cây thuốc, 
Nếu người nào uống đến, 
Các bịnh ác tiêu trừ
Vào kiếp có đói khát
Hiện làm đồ uống ăn, 
Trước là cứu đói khát
Sau giảng dạy chính pháp
Vào kiếp có đao binh, 
Duyên khởi lòng từ bi, 
Giáo hóa cho chúng sanh
Tâm đừng còn tranh đấu
Nếu có chiến trận lớn, 
Làm cho sức ngang nhau, 
Bồ Tát hiện oai thể, 
Hàng phục để yên hòa. 
Trong tất cả cõi nước, 
Chỗ nào có địa ngục
Đi ngay đến nơi đấy, 
Cứu vớt người khổ não
Trong tất cả cõi nước, 
Súc sanh ăn lẫn nhau, 
Đều hiện sanh ra nó, 
Làm cho được lợi ích
Thị hiện trong ngũ dục
Lại cũng hiện tu thiền
Để tâm ma rối loạn
Không thừa dịp hại đặng. 
Hoa sen sanh trong lửa, 
Thật đáng gọi ít có, 
Cõi Dục mà tu thiền
Ít có cũng như thế. 
Hoặc hiện làm dâm nữ
Dắt dẫn kẻ háo sắc, 
Trước lấy dục dụ người, 
Sau khiến vào trí Phật. 
Hoặc làm chủ trong ấp, 
Hoặc làm thầy khách buôn, 
Quốc sư và Đại thần, 
Để lợi ích chúng sanh
Các chỗ có kẻ nghèo, 
Hiện làm kho vô tận
Nhân đó khuyến dạy người, 
Cho phát tâm vô thượng
Kẻ kiêu căng ngã mạn
Hiện làm những lực sĩ
Tiêu phục lòng cống cao
Quay về đạo Vô thượng
Những người hay sợ sệt, 
Đến nơi để an ủi
Trước thí pháp “không sợ”, 
Sau dạy phát đạo tâm
Hoặc hiện lìa dâm dục
Làm vị tiên ngũ thông
Chỉ dạy cho chúng sanh
Để được giới, nhẫn, từ. 
Thấy người cần hầu hạ, 
Hiện làm kẻ tôi tớ, 
Vừa đẹp ý người kia, 
Vừa phát được đạo tâm
Tùy theo việc cần dùng
Mà vào trong Phật đạo
Dùng sức phương tiện khéo
Đều giúp cho đầy đủ. 
Đạo pháp nhiều không lường, 
Việc làm không bờ mé, 
Trí tuệ không hạng lượng, 
Độ thoát vô số chúng. 
Dầu cho tất cả Phật, 
Trong vô số ức kiếp
Khen ngợi công đức kia, 
Cũng không thể hết được. 
Ai nghe pháp như thế, 
Chẳng phát tâm Bồ Đề
Trừ những người bất tiếu, 
Ngu si không trí tuệ

Chú thích của phẩm VIII

1. Phật đạo : Tiếng Phạn là Phật đà Bồ đề, nghĩa là đạo giác ngộ như thật. Lại chỉ tất cả cáe điều phước huệ thanh tịnh thuần thiện của Phật đã thành tựu viên mãn, đều gọi là Phật đạo

2. Phi đạo : Chẳng phải Phật đạo, nghĩa là những phiền não tạp nhiễm, tập nghiệp của tất cả chúng sanh trong ba cõi, ba đờiđạo pháp của Nhị thừa đều chẳng phải Phật đạo. Nhưng nếu thông đạt Phật đạo thì phi đạo toàn là Phật đạo. Tỷ như thật hành các việc trong đời, mà không sa mắc vào đời, cho đến thật hành hiện nhập Niết Bàn của Nhị thừa, mà chẳng dứt sự sanh tử, độ sanh. Đó là ở nơi phi đạotự tại siêu xuất phi đạo, nên tức nơi phi đạothông đạt Phật đạo

3. Năm tội vô gián : 1) Giết cha, 2) Giết mẹ, 3) Giết A La Hán, 4) Phá hòa hiệp của chúng Tăng, 5) Làm cho thân Phật ra máu. Người tạo ra năm tội này, phải đọa vào đia ngục Vô gián (A tỳ), chịu các sự khổ bức, không khi nào hở dứt, nên gọi là Vô gián

4. Như cầu, đò : ý nói rất khiêm nhượng hạ mình, nghĩa là dù bị ngườl đời lấn lướt khinh khi, nhưng vẫn nhẫn chịu không khinh mạn lại, cũng như cầu đò cứ chịu họ dày đạp qua lại. 

5. Tà tế, Chánh tế : Ngoại đạo gọi là tà tế, ví như chỗ hiểm nạn dối gạt người. Phật đạo gọi là chánh tế, ví như chỗ bến đò có thể đưa người qua được. 

6. Bốn món điên đảo
1) Sự vật trong thế gianvô thường mà chấp là thường, 
2) Ngũ dục lạc, không phải vui mà chấp là vui, 
3) Thân này không phải ta mà chấp là ta, 
4) Thân này nhơ nhớp mà chấp là sạch. 
Đây là 4 món chấp của phàm phu

7. Bảy chỗ thức :
1) Sơ thiền
2) Nhị thiền
3) Tam thiền
4) Tứ thiền
5) Vô biên xứ thiền, 
6) Thức biên xứ thiền, 
7) Vô sở hữu xứ thiền, 
là bảy cảnh giới không có thống khổ bức não, thần thức được an trú. Trừ cõi Vô tưởng và cõi Phi phi tưởng không kể, là vì cõi này tâm tưởng quá vi tế, muội lược, tư niệm không rõ ràng

8. Tám pháp tà : Đã giải ở phẩm III số 14. 

9. Chín món não : 
Về quá khứ ai quấy nhiễu mình, quấy nhiễu thân thích mình, thì sanh não, ai khen ngợi kẻ oán của mình, mình cũng sanh não. Quá khứ như thế thì hiện tạivị lai cũng thế, nên gọi là chín chỗ não. 

10. Năm căn : Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân. 

11. Trí độ
Một độ trong 6 độ, nghĩa là trí tuệ viên mãn hay vượt qua biển sanh tử đến bờ Niết bàn rốt ráo

12. Pháp hỷ : Nghe pháp lãnh hội được, sanh lòng vui mừng gọi là pháp hỷ

13. Trần lao : Trần là nhiễm ô, nghĩa là các thứ tà kiến phiền não hay làm nhiễm ô chơn tánh. Lao là nhọc nhằn, nghĩa là các tà kiến phiền não làm cho chúng sanh trôi lăn mệt nhọc trong đường sanh tử

14. Đạo phẩm : Tức phương pháp giúp người tu hành, thành tựu đạo quả Bồ đề, như 37 phẩm trợ đạo v v 

15. Các độ : 6 độ, 10 độ. 

16. Tổng trì : Gồm nhiếp các pháp. 

17. Giác ý : ý niệm giác sát cho tâm điều hòa thích trung, không cao không thấp, không phóng tán, không hôn trầm

18. Bát giải : Tức Bát giải thoát đã giải ở phẩm III số 14. 

19. Bảy thứ tịnh hoa : 
1) Giới tịnh : động tác của thân, khẩu ý thanh tịnh; 
2) Tâm tịnh : tâm thanh tịnh không còn nhiễm trước
3) Kiến tịnh : thấy được chơn tánh các pháp không còn khởi vọng chấp
4) Độ nghi tịnh : Hiểu biết thấu đáo không còn ngờ vực
5) Phân biệt đạo tịnh : Phân biệt rõ ràng tà đạo, chánh đạo
6) Hành đoạn tri kiến tịnh : Tri kiến thật, hành thiện pháp, các ác pháp bị đoạn trừ, được thanh tịnh sáng suốt
7) Niết Bàn tịnh : Chứng được Niết Bàn xa lìa mọi cấu nhiễm

20. Ngũ thông : Lục thông trừ Lậu tận thông. Đã giải nơi phẩm II số 24.

21. Bát chánh : Giải ở phẩm II số 26 trong mục 37 phẩm trợ đạo phần sau. 

22. Thượng phục : Đồ y phục quí đẹp. Đoạn này, ý nól lấy sự hổ thẹn để ngăn ngừa lỗi quấy, cũng như đồ y phục che được gió lạnh vậy. 

23. Bảy của báu
1) Tín, 2) Giới, 3) Văn, 4)Xả, 5)Tuệ, 6) Tàm, 7) Quý. 
Do tin pháp lành nên mới giữ giới. Do giữ giới thì ngăn được các việc ác, việc ác đã dứt, việc lành mới tinh tấn làm thêm. Nhưng tinh tấn làm việc lành cốt do sự học rộng nghe nhiều. Có nghe nhiều đạo pháp, thì tâm niệm mới xả bỏ không còn chấp trước: Do xả bỏ nên trí tuệ phát sanh. Còn tàm và quý cũng như hai người phụ lực để thành tựu 5 pháp trên. 
24. Bốn thứ ma : 
1) Phiền não ma : tham. sân, si v .v. . . hay làm não hại thân tâm
2) Ấm ma : sắc, thọ, tưởng, hành, thức, 5 ấm đó thường sanh các thứ khổ não
3) Tử ma : chết hay đoạn tuyệt mạng căn của người. 
4) Thiên ma : Ma Vương ở trên từng trời Tha hóa tự tại thứ 6 của Dục giới, hay làm hại mất việc phúc thiện của người đời.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14764)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11828)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12760)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10343)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 12068)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15296)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11079)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10537)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12475)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16428)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14312)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11789)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14804)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12030)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16857)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11588)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12736)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11344)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12058)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52126)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15467)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13967)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11442)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13182)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12787)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13222)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17910)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12454)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12656)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54209)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14425)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9933)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13824)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 57970)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14501)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20143)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13790)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15402)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17494)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13314)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11934)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13489)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14669)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12493)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12157)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 12064)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13290)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12541)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13659)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13322)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25601)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12177)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14559)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11861)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42072)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28339)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38805)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14722)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12699)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16239)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant