Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phiên Dịch Và Chú Sớ Kinh Duy Ma

08 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 7588)
Phiên Dịch Và Chú Sớ Kinh Duy Ma

LƯỢC GIẢI KINH DUY MA
Thượng Tọa Thích Trí Quảng
Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh Ấn Hành PL. 2535 - 1999


PHIÊN DỊCH VÀ CHÚ SỚ KINH DUY MA

Kinh Duy Ma nguyên tên là Vimalakirti Nird­esa được lưu truyền từ Ấn Độ sang Tây Vực, Trung Quốc, Tây Tạng, Mông Cổ, Triều Tiên, Nhật BảnViệt Nam. Đặc biệt về mặt tư tưởng giáo lýù đã biểu hiệu đặc sắc về văn học cho đến nghệ thuật, cũng như xã hội cho đến lịch sử giáo hội, mà ngày nay hãy còn được chú ý.

Tư tưởng Duy Macăn bản cho tư tưởng Trung đạo của Long Thọ và cũng là căn bản cho giáo nghĩa của các tông phái như Tịnh độ tông, Mật tông, Địa Luận tông, Thiên Thai tông, Thiền tông, Pháp Tướng tông. Tuy nhiên, đến nay thông thường người ta vẫn xem kinh này là của Thiền tông. Và thực tế thì về mặt sắc bén của giáo lý, kinh này đã phát huy được tính đại biểu về Thiền tông của Phật giáo Đại thừa. Do đó, kinh Duy Ma quan hệ chặt chẽ với Thiền tông qua suốt các quá trình truyền bá.

Điều đó thấy rõ nhất ở Trung Quốc, Triều Tiên. Sau đây lược qua các điểm chủ yếu :

- Tư tưởng Trung đạo : Đây là ý nghĩa bao quát toàn bộ kinh, thực hành tư tưởng này là “Hạnh Bồ tát” như được hiển thị trong “Tận, vô tận giải thoát”, “Bất tận hữu vi, bất tận vô vi”. Toàn thể kinh toát ra tính chất của hạnh Bồ tát, đặc biệt được nói rõ trong nửa phẩm Văn Thù Sư Lợi Bồ tát thăm bệnh và phẩm 11 Bồ tát đạo.

- Tinh thần giới luật : Các vấn đề “tọa cụ” tác pháp trong khi ăn, vấn đề nam nữ căn để phát xuất từ bản vị Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni của Tiểu thừa giới tiến triển đến Đại thừa giới hoặc Bồ tát học xứ. Vì kinh Duy Ma xuất hiện trong bối cảnh sau Phật nhập diệt 100 năm. Đó là lúc mà giáo đoàn khởi xướng tư tưởng cải cách, nên kinh Duy Ma mang tinh thần phóng khoáng để triển khai vấn đề giới luật theo nghĩa của Niết bànPhật tánh luận.

 Kinh Duy Ma được phiên dịch ra Hán văn trước sau 6 lần, hiện còn 3 bản dịch sau : 

1.- Chi Khiêm đời Ngô dịch “Phật thuyết Duy Ma Cật kinh” 2 quyển.

2.- Cưu Ma La Thập đời Dao Tần dịch “Duy Ma Cật Sở Thuyết kinh” 3 quyển.

3.- Huyền Trang đời Đường dịch “Thuyết Vô Cấu Xưng kinh” 6 quyển. 

Trong đó bản dịch của La Thập được phổ biếntruyền bá sâu rộng hơn cả. Về vấn đề nghiên cứu kinh Duy Ma hiện nay, vì nguyên bản tiếng Phạn không tìm thấy, nên ngoài bản dịch tiếng Tây Tạng, chủ yếu đều lấy Hán dịch làm cơ sở. 

Về chú sớ, có thể nói “Chú Duy Ma” của Tăng Triệu cho đến nay vẫn được coi là tác phẩm tiêu chuẩn về giải thích kinh Duy Ma.

 Ngoài ra, có “Duy Ma kinh sớ” gồm quảng sớ và lược sớ của Thiên Thai, “Duy Ma kinh Nghĩa Ký” của Tịnh Ảnh, “Tịnh Danh Huyền luận” của Gia Tường, “Thuyết Vô Cấu Xưng kinh sớ” của Từ Ân và “Duy Ma kinh nghĩa sớ” của Thánh Đức thái tử là những tác phẩm đại biểu. Trong số các tác phẩm chú sớ kể trên chỉ có Từ Ân sử dụng bản tân dịch, còn ngoài ra đều dựa vào bản cựu dịch của La Thập.

Gần đây, kinh Duy Ma đã 4 lần được dịch sang tiếng Âu Mỹ. Lần thứ nhất năm 1897 và 1898, Đại Nguyên Gia Cát đã dịch ra Anh văn, đăng tải liên tục trong The Hansei Zasshi. 

Lần thứ hai do Hòa thượng Tuyền Phương Hoàn dịch ra Anh văn, đăng tải liên tục trong Eastern Buddhist hoàn toàn dịch xong 14 phẩm. 

Lần thứ ba, giáo sư Ja­cob Fischer của Trường phổ thông Trung học Nii­gala, năm Chiêu Hòa thứ 19 với sự cộng tác của Hoàng Điền Vũ Tam đã dịch ra tiếng Đức.

 Lần thứ tư, năm Chiêu Hòa thứ 37, giáo sư Etienne La­motte dùng bản dịch tiếng Tây Tạngtham chiếu bản Hán dịch của Huyền Trang đã dịch ra tiếng Pháp. Tên các dịch bản kể trên như sau :

-Bản dịch của Đại Nguyên : The Vimalakirti Nirdesa Sutra (The discourse of the Wonderous Law of Emancipation).

-Bản dịch của Tuyền Phương: The Vi­malakirti Sutra, Vimalakirti’s Discourse on Eman­ci­pation. 

-Bản tiếng Pháp: L’Enseignement du Vi­malakirti (Vimalakirtinirdésa).

Riêng bản sau cùng của Lamotte có sử dụng đối chiếu Tây Tạng và bản Hán của Huyền Trang đã dịch và chú giải (Traduite et Annotée).

Mùa An cư PL. 2543-1999 

Hòa thượng THÍCH TRÍ QUẢNG

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14775)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11841)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12772)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10354)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 12073)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15304)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11091)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10552)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12484)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16438)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14323)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11802)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14818)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12041)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16866)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11594)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12745)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11354)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12068)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52172)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15479)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13978)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11454)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13193)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12795)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13233)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17926)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12463)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12661)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54220)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14439)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9938)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13831)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 58004)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14518)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20160)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13803)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15416)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17505)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13326)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11942)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13499)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14677)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12502)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12163)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 12074)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13300)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12550)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13673)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13338)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25615)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12189)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14566)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11872)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42087)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28358)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38831)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14733)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12711)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16254)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant