Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm 9 Nhập Bất Nhị Pháp Môn

09 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 7130)
Phẩm 9 Nhập Bất Nhị Pháp Môn

LƯỢC GIẢI KINH DUY MA
Thượng Tọa Thích Trí Quảng
Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh Ấn Hành PL. 2535 – 1999

 

PHẨM 9. NHẬP BẤT NHỊ PHÁP MÔN

I. LƯỢC VĂN KINH 

 Duy Ma Cật hỏi các Bồ tát : “Theo các Ngài, thế nào là Bồ tát nhập pháp môn bất nhị ?”.

Bồ tát Pháp Tự Tại trả lời : “Thừa, diệt là hai, pháp vốn không sanh cũng không diệt, được vô sanh diệt, là nhập bất nhị pháp môn”.

Bồ tát Đức Thủ nói : “Ngã, ngã sở là hai. Nhân có ngã mới có ngã sở. Nếu không có ngã thì không có ngã sở. Đó là nhập bất nhị pháp môn”

Bồ tát Thiện Túc nói : “Động, niệm là hai. Không động thì không niệm, không niệm thì không phân biệt, thông suốt lý ấy, là nhập bất nhị pháp môn”.

Bồ tát Sư Tử Ý nói : “Hữu lậu, vô lậu là hai. Nếu chứng được các pháp bình đẳng thì không có tướng hữu lậuvô lậu. Không chấp có tướng, cũng không chấp vô tướng. Đó là nhập bất nhị pháp môn”.

Bồ tát Tịnh Giải nói : “Hữu vi, vô vi là hai. Nếu lìa tất cả thì tâm như hư không, dùng tuệ thanh tịnh không có chướng ngại. Đó là nhập bất nhị pháp môn”.

Bồ tát Thiện Ý nói : “Sanh tử, Niết bàn là hai. Nếu thấy được tánh sanh tử thì không có sanh tử, không buộc không mở, không sanh không diệt. Hiểu như thế là nhập bất nhị pháp môn”.

Bồ tát Nguyệt Thượng nói : “Tối, sáng là hai. Không tối, không sáng, thì không có hai. Vì sao? Như vào định, diệt thọ tưởng thì không có tối, không có sáng. Tất cả pháp tướng cũng như thế. Bình đẳng vào chỗ ấy là nhập bất nhị pháp môn”.

Bồ tát Châu Đảnh Vương nói : “Chánh đạo, tà đạo là hai. Ở chánh đạo thì không phân biệt thế nào là tà, thế nào là chánh. Lìa hai món phân biệt, đó là nhập bất nhị pháp môn”.

Bồ tát Nhạo Thật nói : “Thực, không thực là hai. Thực thấy còn không thấy, huống là không thực thấy. Vì sao ? Không phải mắt thịt mà thấy được, chỉ có mắt tuệ mới thấy được. Nhưng mắt tuệ không có thấy mà chỗ nào cũng thấy cả. Đó là nhập bất nhị pháp môn” v.v...

Các Bồ tát nói như thế rồi, hỏi Ngài Văn Thù Sư Lợi rằng : “Thế nào là Bồ tát nhập bất nhị pháp môn ?”.

Ngài Văn Thù Sư Lợi nói : “Như ý tôi, đối với tất cả pháp không nói, không rằng, không chỉ, không biết, xa lìa các vấn đáp. Đó là nhập bất nhị pháp môn”. 

Khi đó, Ngài Văn Thù Sư Lợi hỏi Duy Ma Cật : “Chúng tôi nói rồi, đến lượt Ngài cho biết thế nào là Bồ tát nhập bất nhị pháp môn”.

Duy Ma im lặng không nói. Ngài Văn Thù Sư Lợi khen rằng : “Hay thay, cho đến không có văn tự, ngữ ngôn. Đó mới thật là nhập bất nhị pháp môn”.

Khi nói phẩm này, trong chúng có năm ngàn Bồ tát nhập bất nhị pháp môn, chứng vô sanh pháp nhẫn.

II. GIẢI THÍCH

Tất cả pháp được đề cập ở phần trước phẩm 8 là phương tiện để phá vọng thức hay chẻ hiểu biết phân biệt sai lầm của chúng ta, mà tìm cái chân thật sâu kín bên trong; chẻ cho đến tận cùng mới thấy Thiên nữ xuất hiện ở cuối phẩm Phật đạo. Từ đây đưa đến kết luận phá vỡ ngũ uẩn thân mới bắt gặp chơn tâm; hay Phật dạy áng mây phiền não tan, mặt trăng giác ngộ hiện ra

Đó là quá trình tu xóa sạch vọng thức để chơn tâm hiển hiện, quy tất cả pháp tu nhị nguyên có trước về thế giới nhất nguyên. Ở đây gọi là bất nhị pháp môn

Từ trước phẩm 8 thuộc thế giới nhị nguyên hay tương đối pháp. Theo đó, chúng ta sinh hoạt, tồn tại trong cái tương đối, chấp cái này, ghét cái kia. Thí dụ như người lớn ghét trẻ con. Theo kinh Pháp Hoa, muốn an lành đừng thân với Sa di nhỏ tuổi, đừng có chung Thầy với nó. Và ngược lại trẻ con ngán ông già khó chịu. Đó là tương đối pháp. 

Đến phẩm này thành bất nhị. Theo đó, đứng lập trường trẻ nhìn người già, thì nhận biết đó là tương lai của mình. Ở vị trí người già thấy trẻ, biết nó là quá khứ của mình. Hai phần trẻ và già đều là một dưới mắt chúng ta. Cho đến các loài hữu tình tuy đa nguyên đa dạng, nhưng nương Phật huệ thấy tất cả đều tiến lần về Vô thượng đẳng giác; còn chúng ta thấy tất cả đều chui xuống nấm mồ. Về Vô thượng đẳng giác nghĩa là về cõi sống vĩnh viễnNiết bàn, hoặc về cõi chết, tùy chúng ta chọn.

 Phẩm này muốn kiểm chứng toàn bộ Bồ tát tiến về Vô thượng đẳng giác bằng cách nào, hay tu cách nào. 

Ở đây chỉ đề cập đến người tu có kết quả, tiêu biểu bằng 42 Bồ tát. Tôi cũng chưa hiểu con số 42 này mang ý nghĩa gì, nhưng có cảm nghĩ đó là 42 kiểu mẫu tu đưa hành giả đến thế giới bất tử.

Phẩm này mở đầu với 42 vị Bồ tát trình bày trường hợp vào Phật đạo là vào cửa bất nhị của các Ngài. Mỗi vị vào cửa đạo khác nhau và 42 vị phát biểu về sự tu chứng đều bị Duy Ma xem như chưa đạt đếnbất nhị hay quả vị Phật. 

Đối trước sự lầm lỗi của các Bồ tát thượng thủ này, chúng ta tự nghĩ thân phận của mình như thế nào mà bước vào cửa bất nhị được ?

Cảnh giới bất nhị hay cảnh giới chân thật của Như Lai hoàn toàn nằm ngoài ngôn ngữ phàm phu, như chúng ta sẽ thấy Ngài Văn Thù trình bày ở phần sau. Tuy nhiên, muốn truyền thông tư tưởng giữa con người phàm phu chúng ta với nhau, không còn cách nào khác hơn là sử dụng ngôn từ.

 Hơn nữa, chính tôi cũng chưa đạt tới trạng thái yên lặng tịch tĩnhtác dụng làm mọi người giải thoát như Ngài Duy Ma. Vì thế, tôi phải dùng ngôn ngữngôn ngữ của tôi chắc chắn tầm thường hơn sự biểu lộ của 42 Bồ tát. Các Ngài là thượng nhân đã thể nghiệm trình độ tu chứng ở mức độ cao, vượt ngoài sự hiểu biết hạn hẹp của chúng ta

Vì vậy, phần diễn đạt vấn đề nhập cảnh giới bất nhị, một vấn đề trọng yếu của kinh Duy Ma, chúng tôi chỉ nhằm gợi ý để mỗi người tùy phước đức nhân duyên mà tự thâm nhập vào cảnh giới này.

Sau khi dẫn dắt đại chúng phương cách của Bồ tát quán chúng sanh như thế nào và hành Phật đạo ra sao, giúp cho đại chúng thấy được tu hành theo Phật đạo. Lúc ấy, Duy Ma hỏi lại các Bồ tát làm sao nhập bất nhị pháp môn, nghĩa là tu thế nào để thành Phật. Mỗi Bồ tát diễn tả cách vào đạo, nhưng tựu trung cách tu của 42 vị Bồ tát đều tìm bất nhị trong nhị nguyên hay tìm tuyệt đối thể trong pháp tương đối; nghĩa là mỗi vị đều có đối tượng tu hành.

 Chúng ta thực dạ tu hành cũng phải dựng lên thế giới nhị nguyên để tu. Pháp môn tu thật nhiều, nhưng chúng ta chỉ chọn một pháp thích hợp và khi giải thoát đều đồng nhau. 

42 Bồ tát đều tu pháp tương đối, ở trong tương đối quán sát chuyển biến của nó, để tiến đến thế giới tuyệt đối nhất nguyên

Đa số đệ tử Phật chọn cách tu này. Thật vậy, thông thường chúng ta đến với đạo thấy hai thái cực. Một bên là thế giới an lành của Phật và một bên là thế giới đau khổ của chúng sanh.

 Vì chúng tađịa ngục, nên ước mơ về thiên đường, đang khổ mong ước được an lành, đang ở thế giới nhiễm ô muốn về thế giới thanh tịnh. Điều này tất yếu như vậy, không có cách nào khác. 

Từ thế giới chúng sanh đau khổ nhiễm ô nhìn về Phật, thấy thanh tịnh an vui. Chúng ta hướng tâm về đó, từng bước quên mất khổ đau, cảm thấy an lành

Tôi đã chứng nghiệm pháp này sâu sắc. Có những lúc cuộc sống quá khó khăn thiếu thốn, nhưng tâm tôi hướng một cách mãnh liệt về thế giới Phật an lành mà quên mất thực tế bức ngặt này. Đó là thế giới của tâm hay thế giới tinh thần hoàn toàn khác thế giới vật chất. Tuy vật chất thiếu thốn, nhưng thế giới tâm phong phú. Thế giới tâm an lành nằm trong thế giới vật chất đau khổ

Ngược lại, có người vật chất quá dư thừa mà vẫn thấy thiếu thốn, vẫn bị đau khổ dằn vặt. Riêng Duy Ma có thân vật chất già bệnh, nhưng tinh thần Ngài rất khỏe, hoàn toàn sáng suốt

Trên bước đường tu, chúng ta cần lưu ý nếu chỉ lo phần vật chất, không có phần tâm chứng, coi như công phu tu hành bỏ đi. Ngược lại, vật chất hao hụt, thân bệnh hoạn, mà tinh thần thanh tịnh đầy đủ, chắc chắn khi từ bỏ thân này, ta sẽ bước về thế giới Phật. 

Từ thế giới Ta bà nhìn thấy được bằng mắt, Phật chỉ cho chúng ta thế giới Phật A Di Đà ở phương Tây và thế giới Phật Vô Động ở phương Đông.

 Hành giả tu pháp môn Tịnh độ, thân ở thế giới nhiễm ô, tâm hướng về Tịnh độ như Ngài Vĩnh Gia có dạy : “Tam giới du hỏa trạch, bát đức bản thanh lương. Dục ly kham nhẫn độ, thê tâm an dưỡng hương”. Thực tế chúng ta đang sống trong thế giới Ta bà đau khổkinh Pháp Hoa diễn tả thân tâm chúng ta đang bị thiêu đốt trong nhà lửa tam giới

Tuy nhiên, trong thế giới đau khổ này, chúng ta còn cách tu hướng tâm về thế giới không đau khổ, thân Ta bà, tâm Tịnh độ. Sống trong khổ nghĩ đến vui, sống trong hẩm hiu hình dung lầu các, là cách tu để quên khổ của thế gian.

 Chúng ta dại khờ hướng về trần gian mà cầu giải thoát, chẳng bao giờ có. Nhưng nay đặt tâm vào thế giới an tịnh, chúng ta liền được an tịnh

Lúc trẻ tôi thường hình dung cảnh giới Tây phương Cực Lạc của Phật A Di Đà để sống. Dù chỉ tưởng tượng cũng cảm thấy hạnh phúc thanh thản. Ở đó có ao thất bảo, nước bát công đức, nghe chim nói tiếng Phật, nghe gió reo pháp âm v.v...

 Tôi hình dung mình vào sống trong nước bát công đức nhẹ như hư không. Nằm bằng tâm nên muốn nổi thì nổi, muốn chìm tự chìm, muốn xa tự nhảy vọt. Đây là thế giới tâm đem gắn vào Cực Lạc được những cảm nhận đó. Trong bể nước bát công đứchoa sen nổi lên, sáng như gương. Trong sen búp có Bồ tát nhỏ, Bồ tát lớn ở trong hoa sen nở và Bồ tát đứng trên gương sen. Toàn là bậc thượng thiện nhân không làm mất lòng ta. Tôi cảm thấy an lành thật sự, mới hiểu được nghĩa “Thê tâm an dưỡng hương”. Nghĩa là sống trong cuộc đời mệt mỏi, chúng ta tìm được một phút giây an lànhTây Phương Cực Lạc.

Từ khởi đầu tu, chúng ta phân rõ thế giới nhị nguyên là hai phần tốt và xấu, Phật và chúng sanh. Như vậy, chúng ta có thân phàm, thân thánh, tâm phàm, tâm thánh. 

Chúng ta đứng ở thế giới này hướng về thế giới thánh thiện. Vì thế, tuy có thân phàm, nhưng tâm chúng ta đã nằm trong thế giới an lành của chư Phật. 

Gá tâm nơi thế giới Phật lâu ngày, hành giả trở thành dễ thương, vì quen tiếp xúc với thượng thiện nhân nên thân khổ mà tâm an lành. Phàm tâm đã rời bỏ phàm xác biến thành tâm thánh, trở thành Bồ tát nhân gian hay mẫu người thân phàm tâm thánh.

 Từ tâm thánh an lành, chúng ta bắt tâm trở vềâ thân đau khổ này. Lúc ấy, thân đau khổ đã được tâm cải tạo một phần. Vì vậy, chúng ta xả Thiền thì thân hiện hảo tướng, mắt sáng hơn, mặt vui hơn. Đó là cách tu có kết quả, thân tâm đều thăng hoa. 

Như vậy, trải qua quá trình tu, tâm phàm đã trở thành tâm thánh. Và tâm thánh hồi nhập lại thế giới Ta bà nằm trong thân phàm, tạo thành thế giới phàm thánh là một, tức thế giới bất nhị

Trên thực tế, chúng ta thấy rõ Đức Phật Thích Ca có một quá trình tu như vậy. Ngài cũng khởi đầu bằng thân người như chúng ta, nhưng không thích những tạm bợ này. Ngài hướng tâm tìm đạo. Trong 49 ngày tham Thiền, Ngài bắt đầu tham quan thế giới Phật, cho xác phàm tạm nghỉ, để tâm Ngài vân du mười phương. Ngài thấy được Cực Lạc ở phương Tây, thế giới Tịnh Lưu Ly ở phương Đông và tự chọn cho Ngài một Tịnh độ

Đêm mùng 7 rạng mùng 8 tháng chạp, tâm thánh hồi nhập trở lại thân phàm. Tất cả tham lam ích kỷ xấu xa đều hiện đủ trong tâm ông Thánh và đánh nhau một trận cuối cùng giữa hai tâm thánh phàm, để lột bỏ hoàn toàn tâm phàm. 

Chưa đắc đạo, hành giả với ma là đồng minh. Nay từ thế giới Phật trở lại, hành giả là Thánh, đương nhiên nó là ma, nên trở thành thù. Nói cho dễ hiểu, khi chúng ta xấu chơi với người xấu, cùng làm việc xấu, ta và nó là bạn. Nhưng khi chúng ta không làm ác, không chơi chung với xấu, tất yếu có vấn đề đặt ra gọi là ma, chắc chắn nó phải ghét ta. 

Đức Phật đắc đạo đầu hôm chứng được Túc Mạng Minh. Ngài quán sát trở lại ngũ ấm thân, thấy đủ nghiệp chướng tức thế lực vô minh giở mọi thủ đoạn. Nhưng thực sự kẻ thù đó chính là ngũ ấm của chúng ta, không phải ai xa lạ.

 Thật vậy, trước kia vì vô minh lầm tưởng sáu căn, sáu thức là TA thực. Nó ở với ta lâu ngày, chiếm lĩnh toàn bộ thân ta làm cứ địa. Chúng ta phải đấu tranh với nó, một cuộc đấu tranh nội bộ giữa tham áitri thức

Vì thế, chứng Túc Mạng, Ngài tìm cách hóa giải thân ngũ ấm, bắt đầu thu phục ngũ ấm của chính mình, không làm việc gì khác. Từ thế giới Thiền định, bằng Phật huệ, Ngài chiếm lại sáu cửa thành quan trọng của ngũ uẩnsáu giác quan hay sáu căn. Và Ngài bắt đầu sử dụng sáu căn này quan sát trở lại, thấy được túc mạng là nghiệp theo chúng ta nhiều đời. Nó mang đủ các loại hình, đủ loại tánh, từ thân người, thân trời đến súc sanh, ngạ quỷ

Sau khi đã hoàn toàn làm chủ sáu căn, đến nửa đêm, Ngài chứng Thiên Nhãn Minh thấy hoàn toàn khác. Đó là cách quán sát theo Phật, không phải theo chúng sanh. Kinh Pháp Hoa diễn tả là “Bất như tam giới kiến ư tam giới”.

 Thiên Nhãn Minh hay cái thấy của người giác ngộ, sự vật thế nào thấy đúng như vậy, thấy rõ không sai lầm quá trình của nó từ khởi thủy đến hiện tại cho đến muôn kiếp về sau. 

Bấy giờ Đức Phật vẽ ra lộ trình truyền bá giáo pháp của Ngài và chương trình tu học cho mọi người. Đó là giai đoạn ba từ nửa đêm đến sao mai mọc, Ngài chứng Lậu Tận Minh.

 Sáng mùng 8, Đức Phật hoàn toàn làm chủ bản thân, làm chủ xã hộithiên nhiên. Không làm chủ một ngày một kiếp, nhưng làm chủ muôn đời. Còn chúng ta nay làm chủ, mai bị truất quyền. 

Đạo Phật tồn tại hàng bao thế kỷ, nghĩa là Đức Phật làm chủ cả mấy ngàn năm, một thọ mạng dài nhất trong các vị Thánh.

 Chỉ trong vòng 49 ngày ngắn ngủi tư duy dưới cội Bồ đề, Đức Phật thấy rõ quá trình diễn tiến từng người, từng sự kiện, từng chặng đường Bồ tát phải làm gì, ở đâu. Vì vậy, người nào bước đúng lộ trình do Ngài vạch ra, đều tiến đến Vô thượng đẳng giác.

42 Bồ tát diễn tả nhiều cách khác nhau, nhưng chung quy từ nhị nguyên phát triển khả năng, thăng hoa để nhập bất nhị pháp môn hay nhất nguyên

42 Bồ tát trình bày đều đúng, vì các Ngài đã đắc đạo. Tuy nhiên, Văn Thù sợ chúng ta chấp pháp, không được giải thoát. Ngài nhắc nhở chúng ta đừng chấp giữ cái đúng của mình và đem dạy mọi người để họ thấy pháp của người khác sai. 

Tất cả những gì Phật dạy là phương tiện. Tuệ giác của Phật Thích Ca và của các nhà truyền giáo đều đúng, nhưng sinh hoạt tất yếu phải khác. 

Hành giả theo giáo nghĩa Đại thừa là theo Văn Thù hay theo cách sống của Phật, không lập y lời Phật. 

Dưới kiến giải của Duy Ma, sống theo Phật nghĩa là người đời sống thế nào, hành giả sống y hệt họ; nếu khác trở thành đối lập. Điều này gợi cho chúng ta ý thức đừng tạo mẫu hình cố định ràng buộc làm chúng ta khổ. 

Triển khai tư tưởng này, Phật giáo Đại thừa không theo hình thức, nhưng chủ yếu phát huy đạo đứctrí tuệ để thuyết phục người. Đức Phật cũng e ngại chúng ta mắc bệnh chấp pháp, trở thành sai lầmThể hiện ý này, kinh Văn Thù xác định 49 năm Phật chưa nói lời nào. 

Về vấn đề này, tôi nhận thấy một số chùa không cho Tăng trẻ đi học, sợ học giỏi không tu nữa. Đây là quan niệm nguy hiểm. Như vậy hóa ra đạo Phật làm cho người thành ngu dốt hay sao.

 Theo tôi, phải khuyến khích người phát triển, dùng trí khôn xử trí theo Phật. Trí khôntùy cơ ứng biến. Kinh Pháp Hoa diễn tả rằng Phật dùng vô số phương tiện thuyết pháp lợi ích chúng sanh, không nên ở trong khuôn cứng nhắc thủ tiêu trí khôn.

 Đức Phật chứng Lậu Tận Minh phác họa con đường sáng cho chúng ta phát triển. Theo tinh thần này, giáo nghĩa Đại thừa vô cùng tận, trí Bát Nhã được diễn dịch qua biết bao nhiêu sách vở.

Trở lại vấn đề Văn Thù luận bàn về pháp tu của 42 Bồ tát. Theo Ngài, sự tu chứng của 42 Bồ tát còn thuộc pháp tương đối, nằm trong vòng đối đãi thiện ác, phải trái, nhơ sạch, động tịnh, tội phước, hữu lậu vô lậu, hữu vi vô vi, sắc không, minh vô minh, ngã vô ngã, sanh tử Niết bàn v.v...

 Và hai cái đối sau cùng là thế gianxuất thế gian. Trong xuất thế gian cũng có tam thừaPhật thừa đối nhau.

Giai đoạn đầu, thực hành pháp tương đối, ta phân ra hai phần rõ rệt : ta làm lành người làm ác, ta là Thánh người là phàm, ta giỏi người dở.

 Khi có quan niệm ta tốt người xấu, ta sẽ sanh ý niệm ghét người và khinh người. Nghĩa là từ đây đã sanh ra trong ta hai tâm xấu : ghét người và khinh người. Dù người có xấu, có dở thật chăng nữa, họ vẫn trở thành đối tượng thù nghịch của ta.

 Khi dở và xấu của người phát huy trong tâm ta càng cao, thì mặt đối tượng thù nghịch càng tăng trưởng. Như vậy tốt của ta là tốt tương đối, được Văn Thù ví như hoa sen mọc trong bùn, vì có người xấu ta mới ngát hương. 

Trên bước đường tu phàm thánh phân minh hay thế giới nhị nguyên tồn tại, đối với chúng ta là điều tất yếu. Thật vậy, trước mắt người trí luôn luôn hiện hữu phải trái tốt xấu. Và chắc chắn ta sẽ chọn điều tốt, điều phải. Từ đó cứ tiến dần đến một lúc chúng ta bị lệch đường. Làm thiện càng nhiều, ta thấy cuộc đời càng ác gấp bội. Đứng bên này cái tốt nhìn qua thái cực xấu kia, ta bực không nhịn được. Hoặc ta thẳng tay với người ác hoặc ta khiếp sợ nó, sanh tâm chán nản đến độ buông xuôi, để nó hại ta. 

Vì vậy, mặt đối nghịch càng lớn khi ta càng đi xa trên đường giải thoát theo mô hình phân biệt phải trái này.

Đức Phật thuyết kinh Duy Ma để phá vỡ kiến chấp thiện ấy và nhắc nhở chúng ta đừng cho lòng ác tăng trưởng theo việc làm thiện. 

Trong thế giới tâm thức ta thấy rõ điều này. Khi chưa tu, thiên hạ giết người, ta cũng giết người. Thiên hạ giả dối, ta cũng giả dối. Nhưng ta điều chỉnh mình trở thành tốt. Lúc ấy, cái xấu của người sẽ trở thành đối nghịch với ta. Ta thánh thiện để tạo thành tương phản ác lớn hơn, là tu sai pháp. 

Từ đó, Đức Phật mới đặt vấn đề hành phi đạo tức thông đạt Phật đạo, để chúng ta hóa giải thánh thiện của chúng ta. Nghĩa là cởi bỏ phần thánh thiện trong tâm, tạo thế giữa ta và ác không căng thẳng, không đập mạnh vào tâm ta nữa. Không vì thánh thiện của ta mà thấy người ác. Không thấy họ ác, thì thiện của ta mới thành thiện độc nhất hay độc thiện.

Khởi đầu tu có thiện ác đối nhau và tiến đến phá bỏ cái ác đối lập với thiện. Làm cho thiện không có đối nghịch ác, mới thông đạt Phật đạo. Từ đó, đi suốt cuộc đời với cái nhìn sáng suốtgiải quyết việc không theo quyết định cái thiện chủ quan của mình. 

Từ góc độ nhìn của Bồ tát thông đạt Phật đạo thấy khác, không thông đạt làm việc trong thế đối lập. Ngược lại, thông đạt làm việc trong thế hòa giải, càng làm việc thiện càng dìu dắt theo nhiều người cùng làm thiện với mình. Không phải càng làm thiện càng tạo thế đối lập, chống đối.

 Điển hình như tiền thân Phật hành Bồ tát đạo, Ngài giết tên cướp để cứu 500 lái buôn. Ngài đã hóa độ được 500 người này và cả tên cướp trở thành Bồ tát bất thoái chuyển. Đây là mẫu tiêu biểu cao nhất mà Đức Phật đã thể hiện tinh thần hành phi đạo tức thông đạt Phật đạo.

Không đạt đến chứng ngộ này, chúng ta vẫn là chúng sanh đứng ở lập trường sanh tử giáo hóa chúng sanh sanh tử, chỉ là việc vô ích.

 Bồ tát quán sát chúng sanh dưới dạng thể tánh đồng với Phật mà kinh Hoa Nghiêm đưa đến kiến giải cao nhất, theo đó không có gì không phải là Phật mới thật là Phật. Vì nếu khôngchúng sanh, Phật cũng không tồn tại, chúng sanh bị triệt tiêu thì Phật cũng mất.

Dưới góc độ này, Duy Ma xác định việc làm phi đạo của Bồ tát mới thông đạt Phật đạo nhằm mục đích phá bỏ hạn hẹp cục bộ của những người chấp pháp. Hành phi đạo nghĩa là không theo mẫu cố định có sẵn. Thí dụ như chư Tăng ở thành Tỳ Da Ly cất chùa, giữ tiền bị Da Xá cho là phi đạo. Nhưng phi đạo này, dưới mắt Phật giáo Đại Thừa, là Phật đạo; vì nó đóng góp cho nhân sinh lợi lạc, giúp cho đạo Phật tồn tại, phát triển.

 Phi đạo được Bồ tát đem ứng dụng tùy chỗ, tùy thời, có lợi ích khác nhau, không phải theo một khuôn mẫu cố định, mà có nhiều mô hình khác nhau. Nghĩa là trở lại thuyết tương đối : cái này có cái kia có, cái này sanh cái kia sanh. Bồ tát kết hợp hai phần thuận nghịch đối nhau để hành đạo

Bồ tát hành đạo trên lập trường bất nhị pháp môn, tùy theo yêu cầugiải quyết. Gặp hoàn cảnh thuận tốt, Ngài vận dụng pháp thuận để làm. Gặp nghịch cảnh, Ngài nương theo pháp đối nghịch tu tập giáo hóa. Bồ tát sống trên cuộc đời không bị đời làm ô nhiễm. Ngài cỡi thuyền Bát Nhã, lướt trên sóng phiền não, dùng trí tuệ soi rọi vào đời mà lướt đi nhẹ nhàng, ngược xuôi trên dòng thuận nghịch của sanh tử.

42 Bồ tát tiêu biểu đều khởi tu từ pháp tương đối, làm thiện tránh ác. Nhưng sang giai đoạn hai, không tránh ác, mà hóa giải được ác, nên có thêm một Bồ tát đồng hành làm pháp lữ

Cũng vậy, trên bước đường tu, chúng ta bắt đầu thực hiện từng pháp tương đối, dẫn đến thể hiện thập thiện đạo, 37 phẩm trợ đạo, sáu pháp ba la mật. Tuy làm những việc thuần thiện, nhưng hoàn toàn xả bỏ tâm chấp thiện chấp ác. Không có gì tồn tại trong lòng để tâm hồn hoàn toàn giải thoát, bước vào cảnh giới bất nhị, mới thực sự tác động cho người thánh thiện.

Tóm lại, trên dòng sanh diệt của cuộc đời, luôn luôn có hai pháp đối nghịch. Bồ tát thông đạt Phật đạo rồi, nhập bất nhị pháp môn, không còn vướng mắc trong thiện ác. Bồ tát đã thoát vòng tương đối để đi vào tuyệt đối, trở về bản thể sự vật mà Bát Nhã gọi là “BÁT BẤT” thuộc chặng đường sau cùng của lộ trình Bồ tát. Đó cũng là ý chính của phẩm này.

Văn Thù kết thúc 42 ý kiến của các Bồ tát rằng bất nhị pháp môn là pháp tuyệt đối của Bồ tát. Không thể lý luận, không tranh cãi được và cũng không chỉ dạy được pháp này. Người nào tự chứng nghiệm sẽ biết hương vị giải thoát như các Bồ tát trình bày. 

Văn Thù không phủ nhận thuyết của 42 Bồ tát là sai. Ngài khuyên chúng ta làm tất cả việc như 42 Bồ tát đã làm, nhưng không được để vướng mắc trong trường hợp nào. Vì đạo Bồ tát chẳng những xa rời ngôn ngữ, mà còn không có phạm trù.

42 sở đắc của Bồ tát trình bày là 42 dị kiến. Mỗi vị chỉ hiểu một khía cạnh riêng; trong khi chân lý tròn đầy tự sáng, khỏi cần nhờ ai bênh vực, bào chữa. Vì vậy, Duy Ma lặng thinh không nói, mà Duy Ma vẫn tiêu biểu cho sự sống trên nhân gian, làm được tất cả và được mọi người kính trọng.

 42 kiến giải của Bồ tát là 42 phương cách, 42 con đường dẫn đến thế giới bất nhị lặng thinh. Nếu bỏ 42 cách này, hành giả cũng không thể bước vào thế giới bất nhị

Cánh cửa bất nhị mở ra cho hành giả thấy rõ ĐẠO không phải là Chân đế của hàng Thanh văn, cũng không phải là Tục đế của hàng phàm phu thế tục

Những bộ kinh trước kinh Duy Ma ca ngợi đạo xuất thế của Thanh văn tu không dính líu cuộc đời mới thực sự là chân đạo. Nhưng kinh Duy Ma phủ nhận chân đạo của Thanh vănlập luận đảo ngược lại, lấy pháp tu xả thân vào đời làm lợi ích chúng sanh

Tuy nhiên đến phẩm này, Duy Ma đưa ra pháp bất nhị để giải thích con đường Trung đạo nhằm giúp cho hành giả khỏi hiểu lầm pháp tu của Thanh văn. Đừng nghĩ rằng pháp Thanh văn không ích lợi cho đời, để rồi chúng ta chống lại Thánh đạothế tục hóa đạo Phật. 

Bất nhị pháp môn của Duy Ma đưa ra là mô hình Phật đạo để phá bỏ thế giới nhị nguyên đối đãi và đưa đến con đường nhị đế dung thông. Thật vậy, hành giả làm đạo trên thế gian lợi lạc chúng sanh, vẫn không rời bản vị giải thoát của mình. Bấy giờ, Thánh phàm, hữu tình vô tình, hữu vi vô vi,... tất cả sự vật trên cuộc đời, không có gì mà Bồ tát không thông đạt, không tác dụng lợi ích.

 Bồ tát ảnh hưởng tất cả loài chúng sanh, chứng tỏ Bồ tát có làm, nhưng không tồn tại việc làm trong tâm Bồ tátviệc làm này cũng không thể giải thích cho người biết. Tác dụng của Bồ tát vào sáu đường chúng sanh làm cho họ giải thoát. Tuy nhiên, những chúng sanh này cũng không kẹt trong tâm Bồ tát, nên gọi là rời hý luận. Hý luận để hiểu còn nằm trong tương đối pháp, không phải là Bồ tát độc thiện. 

 Bồ tát làm được tất cả, nhưng không ai có thể hiểu được sự thể nhập cửa bất nhị của Bồ tát. Cảnh giới bất nhị thuộc tuyệt đối thể, Thiền gọi là ly văn tự, ly ngôn thuyết, ly tâm duyên. Kinh Pháp Hoa cũng thể hiện ý này rằng “Các pháp tướng thường tự vắng lặng, Bồ tát hành đạo sẽ thành Phật”.

 Văn Thù hỏi tiếp Duy Ma vào bất nhị bằng cách nào? Duy Ma hoàn toàn yên lặng, từ thái độ cho đến trạng thái nội tâm và được Văn Thù tán thán tuyệt diệu. Các Bồ tát giải thích đủ cách, không được Văn Thù chấp nhận.

 Tuy Duy Ma lặng thinh, nhưng tác động vào tâm thánh chúng không ít, họ hiểu được việc làm của Duy Ma tại thành Tỳ Da Ly. 

Chúng ta lặng thinh, thân không động mà dòng tư duy vẫn diễn biến không ngừng. Điển hình như trường hợp Phật Ấn chỉnh Tô Đông Pha về cái gọi là không động tâm của ông.

 Tô Đông Pha tự cho rằng ông không động tâm trước tám việc của thế gian như yêu thương, ghét bỏ, buồn vui, mừng giận, khen chê v.v... nên thốt lên câu đầy tự hào :

 Bát phong xuy bất động

Tuy nhiên, Ngài Phật Ấn thấy được động loạn biến chuyển tận trong tâm của Tô Đông Pha nên cảnh giác ông bằng hai câu :

 Hữu phong bất động, vô phong động

 Bất động vô phong, động hữu phong

Khi có phong trần bên ngoài tác động mà ta nói rằng ta không động, ta biết ta không động là đã động rồi. Và tệ hơn nữa, không có gió bên ngoài tác động, không có người nói, mà tâm ta vẫn động. Sự khởi niệm động tâm này tràn ngập trong lòng, vì ý thức có trước, cảnh vật mới tùy đó sanh. Động từ gốc, từ trong tâm, nên cảnh mới hiện. Sự việc đến với ta là tự biết gió nghiệp ta có. Nghiệp bên trong thôi thúc làm cho cảnh hiện lên.

Sự lặng thinh của Duy Ma tiêu biểu cho yên lặng như chánh pháp. Ngài hoàn toàn yên lặng, không có khởi niệm mà mọi vật đều chịu sự tác động của Ngài. 

Bồ tát đến dự hội thâm nhập vào sự lặng thinh tịch tĩnh của Duy Ma, cũng đạt được vô sanh pháp nhẫn.

Bồ tát an trụ trong tuyệt đối thể, vẫn thể hiện đầy đủ lợi ích trên sanh diệt môn, nhưng không bị vướng mắc điều gì trong tâm. Các Ngài tự tại ra vào cảnh giới bất nhị tùy theo bản nguyệnyêu cầu của chúng sanh.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29878)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27157)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21760)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22225)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23599)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20412)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20047)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21945)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24736)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18981)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24728)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30967)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23973)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27756)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26503)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21295)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23206)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38111)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18798)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18426)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19945)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19029)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23137)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23865)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22782)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22901)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29558)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20631)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18707)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15841)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18841)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19642)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20145)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19945)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18110)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22916)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34158)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16408)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16915)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39214)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26045)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20087)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18840)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24047)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29104)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22898)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30936)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 20997)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26844)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20663)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26243)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23316)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19815)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24664)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30016)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20210)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20399)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15136)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15822)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23863)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant