Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm 13 Pháp Cúng Dường

09 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 7445)
Phẩm 13 Pháp Cúng Dường

LƯỢC GIẢI KINH DUY MA
Thượng Tọa Thích Trí Quảng
Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh Ấn Hành PL. 2535 – 1999

 

PHẨM 13.PHÁP CÚNG DƯỜNG

I – LƯỢC VĂN KINH

Thiên Đế Thích nhận được pháp bất tư nghì giải thoát của Bồ tát quá hay, nên phát nguyện xin hộ trì pháp này lưu lại cho đời sau

Phật liền dạy Đế Thích rằng công đức của người bảo vệ kinh này lớn gấp bội lần hơn người lo tứ sự cúng dường chư Phật mười phương ba đời.

Phật kể cho vua Đế Thích nghe câu chuyện xưa có vua Bảo Cái Chuyển luân Thánh vương dùng chánh pháp cai trị, nước của ông rất thanh bình, nhân dân được sung sướng.

Vua Bảo Cái chuyên cúng dường Đức Dược Vương Như Lai và 1.000 người con cũng nghe theo lời vua cha, thường đến cúng dường Phật. Người con út tên Nguyệt Cái nghe trong hư không tiếng nói của chư Thiên nhắc rằng nên đến hỏi Dược Vương Như Lai cách cúng dường tối thượngpháp cúng dường.

Vương tử Nguyệt Cái theo Phật Dược Vương, nghe được pháp cúng dường, ông liền được pháp nhu thuận nhẫn. Ông cởi y báu cúng Phậtphát nguyện sẽ thực hành pháp cúng dường sau khi Phật diệt độ để giữ gìn chánh pháp.

Vương tử Nguyệt Cái được Phật thọ ký. Sau đó, ông xuất gia, tu tập mãn 10 tiểu kiếp, đầy đủ đạo hạnh Bồ tát, thành Phật hiệu là Bảo Diệm Như Lai. 1.000 người con của vua là 1.000 vị Phật trong đời hiền kiếp, mà Đức Ca La Cưu Tôn Đà thành Phật trước hết. Vị thành Phật sau cùng hiệu là Lầu Chí. Nguyệt Cái, nay chính là Đức Phật Thích Ca.

II – GIẢI THÍCH

Thiên Đế Thích cảm nhận được pháp bất tư nghì giải thoát của Bồ tát quá tuyệt diệu, Ngài phát nguyện với Đức Phật, xin hộ trì pháp này lưu lại cho đời sau được lợi lạc. Nếu không, pháp sẽ bị mai một, uổng phí.

Tôi suy nghĩ, vẫn chưa nhận được cái hay của Đế Thích khen ngợi. Vì người bình thường muốn hiểu việc của người trí, còn khó bắt kịp; huống gì phàm phu chúng ta so với chư ThiênBồ tát, còn cách xa vạn dặm.

Câu hỏi của Đế Thích làm thế nào hộ trì pháp bất tư nghì giải thoát, gợi cho chúng ta suy nghĩ pháp Phật có hai loại : Pháp giải thoát hiểu được và pháp giải thoát không hiểu được. 

Pháp giải thoát hiểu được thì cô đọng trong kinh và chúng ta thể nghiệm được. Đế Thích chỉ quý trọng pháp giải thoát không hiểu được, gợi cho chúng ta cảm nhận rằng giải thoát của Bồ tát vô hạn, đáng quý và cần bảo trì.

Đế Thích là danh xưng của Ấn Độ, hiểu theo ta là Ngọc Hoàng thượng đế. Ngọc Hoàng thượng đế theo kinh Hoa Nghiêm tương ưng với Bồ tát đệ tam địa. Đế Thích đã vượt qua hai pháp bố thítrì giới ba la mật, đã thành tựu pháp nhẫn nhục ba la mật. Trong tứ nhiếp pháp, ông đã hoàn thành bố thí, ái ngữ, lợi hành. Đứng ở vị trí của Bồ tát đệ tam địa, Đế Thích mới thấy Bồ tát bất tư nghì giải thoát. Tuy nhiên, cũng chỉ mới là cái thấy chập chờn.

Giai đoạn một, Bồ tát sơ địa thành tựu pháp bố thí, trở thành Hộ Quốc nhân vương. Vua thể hiện tài thí, pháp thívô úy thí qua ba việc căn bản : giải quyết được cơm ăn, áo mặc, nhà ở, việc làm cho người và giữ gìn bờ cõi, đất nước thanh bình. Mỗi khi niệm Nam mô Hộ Quốc nhân vương Bồ tát, nghĩa là dưới mắt của người tu Hoa Nghiêm, ông vua giữ gìn đất nước là Bồ tát Hộ Quốc nhân vương, tiêu biểu như vua Trần Nhân Tôn của chúng ta.

Giai đoạn hai, tiến lên Bồ tát đệ nhị địa, tu pháp trì giới. Giới của Bồ tát khác với chủ nghĩa giới điều. Trì giới thanh tịnh theo Bồ tátđiều chỉnh ba nghiệp thân, khẩu, ý thanh tịnh. Thân thanh tịnh là làm những việc đạo đức, kiểu mẫu được người quý mến. Khẩu nghiệp thanh tịnh, có lời nói nhu hòa, giọng nói êm tai mát lòng người. Ý nghiệp thanh tịnh, trang nghiêm bằng tứ vô lượng tâm : từ bi hỷ xả.

Đạt được giới đức thuần tịnh, giống Phật, không còn tỳ vết, hiện thân trên cuộc đời làm Chuyển luân Thánh vương, chỉ dùng chánh pháp để điều phục người.

Chuyển luân Thánh vương nhờ tu trì giới, có thất bảo là bảy việc mà người thường không có. Trước tiên, Chuyển luân Thánh vương phải có kim ấn hay thiên ấn là ấn tượng hay dấu hiệu mà người thế gian không có; như Phật Thích Cathiên luân bức là một đường chỉ ở dưới bàn chân giống hình bánh xe chuyển pháp luân. Thứ hai là ông có tượng binh mạnh nhất, tức voi trắng sáu ngà. Và cũng có đoàn kỵ binh vô địch. Kế đến, ông được nhiều người hiền đức giúp việc. Và điều kiện sau cùng là Chuyển luân Thánh vương ra đời phải có Đức Phật, phải được Phật hộ niệm, tức phải có trí tuệ sáng suốt chỉ đạo

Hiểu theo tinh thần Hoa Nghiêm, Phật này là Phật tâm. Bên ngoài đầy đủ, nhưng thiếu ông Phật bên trong cũng không thành. Bồ tát nương với Phật làm việc, đó là Phật thực hay tâm sáng suốt hướng dẫn cũng được.

Qua giai đoạn làm Chuyển luân Thánh vương, đến Trời Đế Thích tu nhẫn nhục và lợi hành là chính, làm bất cứ việc gì cũng vì người, không vì mình. Theo kinh Hoa Nghiêm, muốn làm Trời Đế Thích phải mang hết tâm lực, nguyện lực phục vụ chúng sanh, không phải làm để được cung kính.

Đạt pháp nhẫn ba la mật của Bồ tát khác với nhẫn nhục của người thường ở điểm Đế Thích có hạt châu. Hiểu theo Đại thừa, tâm sáng suốt ví như hạt châu. Muốn nhẫn theo Bồ tát phải thấy tất cả diễn biến trên thế gian; thấy đúng mới nhẫn được.

Nhờ tâm sáng suốt, Đế Thích thấy rõ, cai quản 33 tầng trời mà vẫn ngồi yênDiệu pháp đường giảng kinh. Ngày xưa khó hiểu việc ngồi một chỗ, kiểm soát được mọi nơi. Ngày nay, với khoa học hiện đại, điều này không còn khó hiểu. Chúng ta có thể ngồi yên vẫn kiểm soát khắp nơi qua radar. 

Muốn nhẫn phải biết rõ người, mới điều động được họ. Bồ tát đệ tam địa biết được tất cả căn tánh hành nghiệp của chúng sanh, nhưng họ không biết Bồ tát. Nhẫn ba la mật nghĩa là không còn gì trên cuộc đờiBồ tát phải nhịn, vì mọi sinh hoạt đổi thay thế nào cũng nằm trong quỹ đạo của Ngài.

Đạt được tâm sáng suốt, thấy 33 tầng trời, Đế Thích mới gần Duy Ma, khả dĩ hiểu Duy Ma, hiểu việc làm của Bồ tát. Ngài mới phát nguyện bất cứ nơi nào có kinh Bất tư nghì giải thoát, sẽ dùng hết khả năng bảo vệ. Đế Thích không bảo vệ bộ kinh bằng giấy. Ngài bảo vệ Bất tư nghì giải thoát kinh là bảo vệ cái gì làm cho người đạt đến giải thoát, một sự giải thoát nằm ngoài suy nghĩ biết được. Đây là điểm khác biệt giữa tư tưởng Tiểu thừaĐại thừa.

Tiểu thừa dạy chúng ta chỉ nên tin và làm theo những gì hiểu được. Nhưng đến pháp bất tư nghì giải thoát, chúng ta thấy rõ sự kiệnXá Lợi Phất không hiểu được vẫn là sự thật, là chân lý. Thật vậy, thử nghĩ xem những phát minh ngày nay của chúng ta, làm thế nào 2.000 năm trước hiểu được, dù đó là sự thật.

Vì vậy, kinh Đại thừa thường phủ nhận hiểu biếtgiới hạn của con người. Thiên thượngĐế Thích thấy rõ pháp của Bồ tát, mới phát nguyện hết lòng giữ gìn kinh Bất tư nghì giải thoát. Trí hiểu biết của con người trên nhân gian không hiểu được, nên họ không phát nguyện giữ kinh này.

Bất tư nghì giải thoát kinh là cái không hiểu, được thể hiện trọn vẹn trong cuộc sống của Duy Ma. Thanh văn không thể hiểu những diễn biến từ phẩm 1 đến 12. Việc làm của Duy Ma khởi đầu xây dựng nhân gian Tịnh độ, cuối cùng quay về tự tánh thanh tịnh của tâm, cũng có nghĩa là trở về với Đức Phật Vô Động ở nước Diệu Hỷ.

Phật dạy làm cách nào bảo vệ toàn bộ pháp bất tư nghì giải thoát mới là điều quý nhất trên cuộc đời. Ngài giả sử có người rất thương kính Phật, lo đầy đủ tứ sự cúng dường chư Phật mười phương hiện tại, quá khứ, vị lai. Phước của người này cũng không bằng công đức của người giữ gìn Bất tư nghì giải thoát kinh.

Kinh Đại thừa thường đặt căn bản trên giáo, lý, hạnh, quả. Người tu phải biết nghĩa lý sâu xa bên trong để giữ. Giữ nó trong hành động sinh hoạt hàng ngày của chúng ta, gọi là hạnh. Và hạnh này phải dẫn đến kết quả tốt là quả bất tư nghì giải thoát.

Trong cuộc sống, chúng ta thể hiện cách sống thế nào cho người thấy được bất tư nghì. Nói cách khác, làm được như Duy Ma mới là giữ kinh. Giữ giáo lý sống của Đức Phật trên thế gian quý trọng hơn là giữ giáo lý chết. Đại thừa chủ trương đạo yếu Tăng hoằng là vậy. Đạo pháp chỉ tồn tại và phát triển mạnh khi hiện hữu ông Tăng đắc đạo. Và đạo pháp lu mờ theo sự bất tài kém đức của ông Tăng. Thực tế lịch sử đã chứng minh ý này. Hình ảnh Hòa thượng Quảng Đức an nhiên ngồi trong ngọn lửa, tiêu biểu cho hiện tượng bất tư nghì giải thoát, khiến mọi người phải thán phục, quy ngưỡng đạo Phật. Ngài đã thể hiện trọn vẹn sự tối thượng cúng dường, đó là hạnh cúng dường.

Hành giả cúng dường pháp, thành tựu được việc mà người thường không làm được, ảnh hưởng cho người phát tâm bồ đềđắc đạo trong tương lai. Vì thế, pháp cúng dường quan trọng hơn hình thức cúng dường phẩm vật. Đức Phật có tự thọ dụng thân, việc ăn không còn cần thiết đối với Ngài. Và Phật nhập diệt, chúng ta xây tháp thờ, tỏ lòng cung kính Ngài. Đôi khi, chúng ta thấy nhiều ngôi tháp rêu phong, chẳng ích lợi gì, còn ngôi tháp sống trên cuộc đời đáng quý biết bao.

Phật nhắc chuyện quá khứ cho Thiên Đế Thích nghe. Xưa có vua Bảo Cái cai trị nước thật bình ổn, không phải sử dụng đến binh lực. Các vua khác thấy sức mạnh của Bảo Cái quá lớn, không dám nổi loạn. Điều này cho thấy người hành pháp nhẫn nhục phải có sức mạnhtrí khôn, không phải để trấn áp người; nhưng hai đặc tánh này khiến người không dám làm ác. Nếu thế lực từ bi yếu hơn thế lực bạo động, ta dễ bị đối phương ám hại.

Nước của vua Bảo Cái thanh bình, ai cũng sống đúng chánh pháp, không phạm tội lỗi. Mọi việc trong nước đều thanh nhàn, êm xuôi. Vua Bảo Cái chỉ làm việc duy nhất là đến cúng dường Đức Dược Vương Như Lai.

Đi chùa cúng Phật, có thể hiểu theo hai nghĩa. Nghĩa thứ nhất là chùa thật bên ngoài. Nhưng hiểu theo Duy Ma, thờ Đức Phật Vô Độngtrở về chùa trong tâm, quay về tự tánh thanh tịnh của ta. Và Phật là trí tuệ, hay ta ngồi tĩnh tâm để tâm hồn lắng yên, trí tuệ phát sanh, thấy sáng suốt, giúp ích cho xã hội an lành, phát triển.

Vua Bảo Cái đi tìm Dược Vương Như Lai, có hai nghĩa : tìm người toàn trí và tìm khả năng phát triển con người. Vua gặp được Phật Dược Vương, tìm ra viên thuốc cứu tất cả bệnh. Hiểu theo ngày nay là tìm được giải pháp giải quyết được mọi gút mắt trên cuộc đời.

Bảo Cái Chuyển luân Thánh vương vừa xây dựng đế quốc thanh bình, vừa cúng dường Phật Dược Vương, nhằm diễn tả cuộc sống vừa tu hành vừa lo cho đời. Nương pháp giải thoát, bốn biển thái bình; và ngược lại, nhờ đất nước thái bình mà phát triển giải thoát. Hai pháp này hỗ tương phát triển, thăng hoa cuộc sống. Tốt đạo đẹp đời là quan niệm của Bồ tát, trái với Thanh văn chủ trương dấn thân vào đời sẽ không giải thoát.

Với kinh nghiệm tu hànhkinh nghiệm trị nước an dân dài lâu, Bảo Cái dạy 1.000 người con phải tiếp nối sự nghiệp của Ngài bằng cách cúng dường chư Phật. Các con đều nghe lời vua dạy. Người con út là Nguyệt Cái tự nghĩ rằng còn có pháp nào thù thắng hơn việc cúng dường Phật hay không. Lúc ấy, ông nghe trên hư không nói rằng : Thiện nam tử, có cách cúng dường tối thượngpháp cúng dường, ông nên đến Phật Dược Vương hỏi về pháp cúng dường.

Theo tinh thần Đại thừa, từ thấp lên cao có ba pháp cúng dường : phẩm vật cúng dường, kính tín cúng dường và hạnh cúng dường.

Đa số chúng ta thường dâng cúng phẩm vật. Tuy nhiên, pháp này ngày nay không còn giá trị giống như khi Phật tại thế. Phật tại thế, hiện tiền Tam Bảo mang đầy đủ tính chất quý báu, nên Phật tử cúng dường Tam Bảo là có công đức. Cúng dường tạo điều kiện cho Tam Bảo tồn tại, thực tế là mang phẩm vật cúng dường để nuôi sống Phật và Tăng. Các Ngài là những người thể hiện pháp hay chân lý, làm lợi ích cho cuộc đời. Chúng ta cúng dường là đã góp phần với các Ngài để lo cho người khác thăng hoa cuộc sống.

Nhưng khi Phật nhập diệt, cúng dường Tam Bảo mang ý nghĩa khác. Cúng dường tượng Phật, tất nhiên tượng không ăn, ta ăn. Phần cúng dường như vậy coi như mất tác dụng.

Phật Niết bàn, Bồ tát thường xây tháp cúng dường Phật hoặc ghi chép lời Phật dạy để cúng dường. Cúng dưới hình thức này thể hiện tâm thành, nên gọi là kính tín cúng dường. Chúng ta tin phước đức, trí tuệ của Đức Phật viên mãn, không cần thọ lãnh phẩm vật cúng dường. Vì thế, chúng ta cúng dường vật gì tiêu biểu cho Phật như tháp thờ xá lợi Phật hoặc tiêu biểu cho lòng kính trọng của ta đối với Phật, đối với giáo pháp của Ngài ghi lại trong kinh điển. Đây là pháp cúng dường, quan trọng hơn là phẩm vật cúng dường.

Thật vậy, chúng ta nhận chân rằng Phật xuất hiện trên cuộc đời không ngoài mục đích mang tri kiến cho ta, giúp ta giải thoát như Ngài. Chúng ta trân trọng kính tin Phật và tin giáo pháp của Ngài dạy là chân lý. Pháp Phật còn tồn tại làm lợi ích cho mọi người cũng giống như Phật còn tại thế.

Tuy nhiên, kính tin và trân trọng lời Phật dạy vẫn chưa đủ. Nếu để giáo pháp của Phật sang một bên và tiếp tục công việc thường nhật của chúng ta, thì giáo pháp cũng trở thành vô ích.

Sau khi Phật diệt độ, xây tháp, in kinh nhiều. Nhưng không ai đọc kinh, hiểu kinh, không ai tu, tháp Phật không được quý trọng, thì tháp và kinh Phật không có tác dụng, không có giá trị. Thực tế cho thấy tháp và chùa chỉ còn tác dụng một thời gian ngắn sau Phật diệt độ, khi lòng người còn hoài vọng mạnh về Đức Phật. Tuy nhiên, cách Phật càng xa, niềm tin đối với Ngài càng giảm theo và lời Phật dạy trong kinh cũng mất sức sống. Chùa tháp lúc ấy có đồ sộ nguy nga mấy, cũng rơi vào quên lãng, trở thành điêu tànkinh điển chỉ còn là mớ giáo điều khô chết.

Đến thời kỳ mạt pháp, xây dựng chùa thì dễ, nhưng đào tạo chư Tăng thì rất khó. Nhất là đào tạo Tăng tài có đủ tư cách duy trì Phật pháp trên thế gian, quả thật là khó vô cùng. Đến thời vua A Dục mới nghĩ đến việc đào tạo Tăng tài. Việc này hoàn toàn vấp phải sai lầm, thất bại dưới thời vua Lương Võ Đế, khi ông cho tù nhân làm thầy tu. Người tu là mẫu người đầy đủ tri thứcđạo đức mới khả dĩ duy trì được sự thật cao quý trên cuộc đời.

thời mạt pháp, Phật khuyên chúng ta tu hạnh cúng dường, thể hiện việc làm lợi ích cho đời là cách cúng dường tốt nhất. Chính Phật Thích Ca tiêu biểu mẫu người thực hiện hạnh cúng dường một cách trọn vẹn

Ngài kể lại tiền thân là vương tử Nguyệt Cái thấy Phật Dược Vương ảnh hưởng an lành cho xã hội. Nguyệt Cái cũng phát tâm muốn làm an vui lợi lạc cho người, giống như Phật Dược Vương

Đức Phật Dược Vương thấy Ngài thông minh, đạo đức, mới khuyên Ngài tu, sẽ đạt được lực bất tư nghì như Phật. Không tu, không thể có tuệ giác, tức nhận thức vượt ngoài khả năng của người đời.

Nguyệt Cái nỗ lực tu hành từ thời Bảo Cái Chuyển luân Thánh vương cho đến khi Ngài thành Phật Thích Ca. Quả vị mà Ngài thành tựu chính là pháp cúng dường hay hạnh cúng dường.

Đến đây, mở ra cánh cửa nhằm khuyến khích hàng Thanh văn phát triển Bồ tát hạnh, tiến đến Phật quả, hay đủ tư cách của vị xuất trần thượng sĩ, làm việc thay Phật, mới quan trọng.

Nếu chỉ đúc tượng, xây chùa, đầu tư phát triển vật chất quá nhiều; trong khi tinh thần bị hao mòn, dốt nát, chùa cũng sẽ bị tiêu hủy. Thật vậy, kinh nghiệm lịch sử cho thấy biết bao nhiêu chùa ở Trung Á bị Hồi giáo đốt sạch, giết sạch tu sĩ Phật giáo. Phật giáo tồn tại, phát triển mạnh khi đệ tử Phật đầu tư vào tri thức, đạo đức, vào việc làm lợi ích cho đời; điển hình như Phật giáo Lý Trần, thử hỏi ai tiêu diệt chúng ta được.

Ý thức sâu sắc điều này, suốt cuộc đời tôi chỉ lo học, lo xây chùa trong tâm tôi, cố gắng nâng tri thức của bản thân và của Tăng Ni Phật tử cho ngang tầm với xã hội. Có như vậy, xã hội mới chấp nhận chúng ta. Chúng ta không đi trước, thì cũng bằng thiên hạ, không đứng sau. Đó là ý nghĩa hạnh cúng dường trong ba pháp cúng dường.

Có thể nói thời chánh pháp, tượng pháp, mạt pháp, đều phải có pháp tu tương ưng riêng. Tuy nhiên, điểm chung nhất đòi hỏi phải có Phật hay Bồ tát gần bằng quả vị Phật, mới có khả năng thay Phật. Nghĩa là muốn duy trì Phật pháp, không có cách nào khác hơn là chúng ta phải thành tựu tri thứcđạo đức vượt trội hơn xã hội.

Những mẫu người tiêu biểu cho hạnh cúng dường, đáng được nhắc đến như con vua A Dục. Ngài bỏ ngôi đi tu, sang truyền giáoTích Lan và làm Tổ ở đó, biên soạn tạng kinh Pali. Khi xuất gia, Ngài phát tâm thọ Bồ tát giớitu hành là việc chính, còn xây chùa chỉ là phần phụ. Hạnh của Ngài nói lên đạo Vô thượng quý hơn tất cả những gì của thế gian, nên sẵn sàng từ bỏ ham muốn ngũ dục của đời để đổi lấy giáo pháp cao thượng. Nếu không có những mẫu người này, không sao nói lên được pháp bất tư nghì giải thoát của Phật.

Ngoài ra, Thánh Đức thái tử cũng thể hiện trọn vẹn tinh thần hạnh cúng dường theo kinh Duy Ma. Ông là thái tử Nhật Bản, rất thông minh. Vào thế kỷ thứ 6, ông đã biên soạn Hiến pháp Nhật và chính ông giảng bộ kinh Duy Ma. Lòng mộ đạo và cuộc sống đạo đức của ông cũng như tài lãnh đạo khéo léo, đã thể hiện bài pháp sống động, tác dụng hữu ích cho người dân Nhật.

Việt Nam, Tuệ Trung Thượng sĩ giảng bộ kinh Duy Ma, làm Tổ sư của Thiền phái Trúc LâmĐiều ngự giác hoàng Trần Nhân Tôn cũng đã thể hiện trọn vẹn tinh thần phục vụ chúng sanhcúng dường Phật. Khi thành tựu hạnh nguyện lợi lạc quần sanh, Ngài xem địa vị danh vọng vô thường, ảo mộng, sẵn sàng từ bỏ ngai vàng như chiếc giày rách, lên núi tu hành. Các Ngài không giảng kinh suông trên lý thuyết, nhưng đã chứng minh sâu sắc giáo lý vô thượng của Phật bằng cả cuộc đời phục vụ ích nước lợi dân, vẫn không rời bản vị giải thoát.

Tóm lại, trong pháp cúng dường, quan trọng nhất là hạnh cúng dường. Nghĩa là chúng ta nắm bắt được giáo pháp của Phật truyền trao, ứng dụng vào cuộc sống và nhận được an vui giải thoát, tri kiến của chúng ta thăng hoa trên đường đạo. Và cuối cùng, chúng ta thâm nhập thế giới bất tư nghì giải thoát, thành tựu quả vị Vô thượng bồ đề. Đạt đến cứu cánh này, chư Phật mười phương đều hoan hỷ, chúng ta mới báo đáp phần nào công ơn muôn một của đức Từ phụ Thích Ca Như Lai.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29875)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27154)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21757)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22225)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23599)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20410)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20047)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21945)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24736)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18975)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24721)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30965)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23971)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27756)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26501)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21293)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23205)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38107)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18798)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18424)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19943)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19029)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23136)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23863)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22780)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22899)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29558)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20629)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18706)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15841)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18835)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19641)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20144)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19945)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18110)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22914)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34157)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16406)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16913)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39206)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26042)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20087)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18835)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24047)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29098)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22897)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30927)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 20997)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26842)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20662)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26240)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23315)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19814)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24662)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30007)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20208)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20399)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15135)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15822)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23860)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant