Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần Iv

09 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 6890)
Phần Iv

KINH DUY MA
Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải

4

Nhìn Phật Bất Động

Hiến Cúng Bằng Pháp

Ký Thác Từ Tôn

Viết Tắt

Ghi Chú


Nhìn Phật Bất Động

Đức Thế tôn hỏi trưởng giả Duy ma, rằng trưởng giả muốn thấy Như lai, mà thấy Như lai bằng cách nào? Trưởng giả thưa, con nhìn thấy thật tướng thân con thế nào thì nhìn thấy đức Thế tôn cũng y như vậy. Con nhìn thấy đức Thế tôn trước không đến, sau không đi, hiện không đứng. Con không nhìn thấy sắc, sắc như, sắc tánh, không nhìn thấy thọ, tưởng, hành, thức, thức như, thức tánh. Không phát sinh từ bốn đại chủng. Đồng đẳng không gian. Sáu quan năng không dồn chứa. Đã siêu viêểt sáu quan năng. Không ở trong ba cõi. Thoát ly ba thứ dơ bẩn (38) . Thuận theo ba cửa giải thoát. Toàn hảo ba minh trí. Đồng đẳng vô minh. Không đồng nhất, không mâu thuẫn, không chủ thể, không khách thể. Không phải khái niệm không, không phải khái niệm chấp thủ. Không ở bờ bên này, không ở bờ bên kia, không ở giữa dòng, vậy mà hóa độ chúng sinh. Quan sát tịch diệt mà không vĩnh diệt. Không phải cái này, không phải cái kia, không lấy cái này, không lấy cái kia. Không phải nhận biết bằng trí, không phải nhận thức bằng thức. Không tối, không sáng. Không tên, không tướng. Không mạnh, không yếu. Không sạch, không dơ. Không thuộc phương hướng, không tách phương hướng. Không phải hữu vi, không phải vô vi. Không chỉ thị, không phô diễn. Không phải bố thí hay keo lẫn. Không phải trì giới hay phạm giới. Không phải nhẫn nhục hay sân hận. Không phải tinh tiến hay biếng nhác. Không phải định ý hay loạn động. Không phải trí tuệ hay ngu si. Không thật, không dối. Không đến, không đi. Không ra, không vào. Tất cả con đường nói năng đều bị cắt đứt. Không phải ruộng phước hay phi ruộng phước. Không phải thích ứng hiến cúng hay phi thích ứng hiến cúng. Không lấy, không bỏ. Không có, không không. Đồng đẳng chân tế, bình đẳng pháp tánh. Không thể cân, không thể lường, vượt quá mọi sự cân lường. Không lớn, không nhỏ. Không thấy, không nghe, không hay, không biết. Thoát ly kết buộc. Đồng đẳng trí giác. Bình đẳng chúng sinh. Với các pháp thì không phân biệt. Không đánh mất, không dơ bẩn, không bực tức, không thao tác, không phát động, không phát sinh, không hủy diệt, không e sợ, không lo buồn, không vui mừng, không chán nản. Không đã có, không sẽ có, không đang có. Không thể phân biệt biểu thị bằng mọi thứ ngôn ngữ. Bạch đức Thế tôn, thân thể của Ngài là như vậy. Nên nhìn thấy như vậy. Nhìn thấy như vậy là nhìn chính xác, nhìn thấy khác đi là nhìn sai lầm.

Lúc ấy tôn giả Xá lợi phất hỏi trưởng giả Duy ma, trưởng giả chết từ thế giới nào mà sinh đến thế giới này? Trưởng giả Duy ma hỏi lại, pháp của tôn giả được có chết có sinh không? Không, tôn giả Xá lợi phất trả lời như vậy. Trưởng giả Duy ma nói, nếu pháp không chết không sinh thì sao tôn giả lại hỏi con chết ở đâu sinh đến đây. Thưa tôn giả, ý của tôn giả nghĩ thế nào, nhà ảo thuật biến ảo ra nam nữ, thì có thể gọi nam nữ ấy là chết và sinh không? Tôn giả Xá lợi phất nói không có chết và sinh gì cả. Kính bạch tôn giả, ngài nghe Phật dạy các pháp đều như huyễn ảo chăng? Tôi nghe đúng như vậy. Vậy, các pháp như huyễn ảo thì sao tôn giả lại hỏi con chết ở đâu sinh đến đây. Kính bạch tôn giả, chết là bại hoại một cách dối trá, sinh là liên tục một cách dối trá. Bồ tát chết mà không chết gốc lành, sinh mà không sinh rễ ác. Bấy giờ đức Thế tôn bảo tôn giả Xá lợi phất, có một thế giới tên là Diệu hỷ, đức Phật giáo chủ hiệu là Bất động (39) . Trưởng giả Duy ma mất ở thế giới ấy mà sinh đến thế giới này. Tôn giả Xá lợi phất thưa, thật là chưa từng có, bạch đức Thế tôn. Vị trưởng giả này bỏ được thế giới thanh tịnh mà sinh đến thế giới lắm điều tai hại này. Trưởng giả Duy ma nói với tôn giả Xá lợi phất, tôn giả nghĩ thế nào, khi ánh sáng mặt trời xuất hiện thì có ăn nhập với bóng tối không? Không, ánh sáng xuất hiện thì bóng tối không còn. Mặt trời vì sao vận hànhđại lục Diêm phù? Vì muốn chiếu ánh sáng mà trừ bóng tối. Bồ tát cũng vậy, tuy sinh thế giới dơ bẩn mà để giáo hóa chúng sinh, hủy diệt phiền não ám chướng cho chúng sinh, chứ không phải ăn nhập với ám chướng.

Bấy giờ đại hội khao khát muốn thấy thế giới Diệu hỷ, thấy đức Bất động như lai, thấy bồ tátthanh văn của thế giới ấy. Đức Thế tôn biết ý nghĩ của đại hội, nên bảo trưởng giả Duy ma, rằng Thiện nam tử, hãy hiển thị cho đại hội này về thế giới Diệu hỷ, về đức Bất động như lai, về bồ tátthanh văn của thế giới ấy. Đại hội này ai cũng muốn được nhìn thấy. Trưởng giả Duy ma nghĩ mình đừng đứng dậy khỏi chỗ mình ngồi ở đây mà tiếp lấy thế giới Diệu hỷ, bao gồm thiết vi, núi sông, khe hang, rào thác, biển cả, suối nguồn, tu di, thái dương, nguyệt cầu, tinh tú, chư thiên, long chúng, quỉ chúng, thần chúng, cung điện Phạn thiên v/v; bao gồm bồ tát, thanh văn, thành thị, thôn xóm, nam nữ, lớn nhỏ; đến cả đức Bất động như laicây bồ đề của ngài, những hoa sen quí, tất cả những gì có thể làm việc Phật bất cứ ở đâu. Có ba đường cấp từ Diêm phù đến Đao lợi. Do các đường cấp ấy mà chư thiên xuống lễ bái đức Bất động như lai, nghe và tiếp nhận kinh pháp Ngài nói. Người Diêm phù cũng đi bằng đường cấp ấy mà lên đến Đao lợi, thấy hàng chư thiên. Thế giới Diệu hỷ hoàn thành tất cả thành quả như vậy. Trên đến hữu đỉnh, dưới đến thủy luân, ta hãy dùng tay phải ngắt lấy, rồi, như cái vòng của người thợ gốm (40) , ta đem nhập vào thế giới này. Ta hãy làm như cầm vòng hoahiển thị cho đại hội. Trưởng giả Duy ma nghĩ như vậy rồi nhập chánh định, hiện thần lực, dùng tay phải ngắt lấy thế giới Diệu hỷ để vào thế giới này. Những vị bồ tát, thanh vănchư thiênthần thông thì cùng nói, dạ, bạch đức Thế tôn, ai lấy chúng con đem đi, xin Ngài cứu cho. Đức Bất động như lai nói không phải Như lai làm, mà làm việc này là thần lực của trưởng giả Duy ma. Những người chưa được thần thông thì không hay không biết mình đi đến đâu. Thế giới Diệu hỷ tuy nhập vào thế giới này mà thế giới này không thêm không bớt, cũng không dồn ép. Thế giới này vẫn nguyên trạng, không có gì khác lạ. Lúc ấy đức Thích ca thế tôn bảo cả đại hội, các người hãy nhìn đức Bất động như lai của thế giới Diệu hỷ, nhìn thế giới tráng lệ, bồ tát tịnh hạnhthanh văn thanh bạch của Ngài. Cả đại hội đều nói, dạ, chúng con đã nhìn thấy. Đức Thích ca thế tôn lại nói, nếu bồ tát muốn được thế giới thanh tịnh như vậy thì phải tu học theo đường đi của đức Bất động như lai. Khi thế giới Diệu hỷ hiện ra thế giới Sa bà này thì có mười bốn na do tha người phát tâm vô thượng bồ đề, cùng nguyện sinh về thế giới Diệu hỷ. Đức Thích ca thế tôn liền thọ ký, rằng các người sẽ được về đó. Thế giới Diệu hỷ ở thế giới Sa bà này làm những sự lợi ích đáng làm rồi, trở về chỗ cũ. Đại hội ai cũng thấy như vậy.

Đức Thế tôn bảo tôn giả Xá lợi phất, tôn giả nhìn thấy thế giới Diệu hỷ và đức Bất động như lai rồi, phải không? Dạ phải, con đã nhìn thấy. Bạch đức Thế tôn, con nguyện cho tất cả chúng sinh đều được tịnh độ như đức Bất động như lai, đều được thần lực như trưởng giả Duy ma. Bạch đức Thế tôn, chúng con được thiện lợi mới gặp người như vậy mà thân gần tôn kính. Chúng sinh có ai, hoặc bây giờ, hoặc sau khi đức Thế tôn nhập diệt, mà được nghe kinh pháp này thì cũng là đã được thiện lợi, huống chi nghe rồi tin hiểu, tiếp nhận, ghi nhớ, nghiên cứu, thuộc lòng, giải thích, làm đúng. Nếu tay ai cầm được cuốn kinh này thì thế là đã cầm được kho tàng pháp bảo. Ai nghiên cứu, thuộc lòng, giải thích, làm đúng, thì thế là đã được chư Phật hộ trì, nghĩ nhớ. Ai hiến cúng những người như vậy thì nên biết thế là hiến cúng đức Thế tôn. Ai sao giữ kinh này thì thế là nhà họ có Phật. Ai nghe kinh này mà tùy hỷ thì thế là thủ đắc trí tuệ toàn giác. Ai tin hiểu kinh này, dầu một bài bốn câu chỉnh cú mà thôi, rồi loan báo và giải thích cho người, thì người ấy đã được thọ ký vô thượng bồ đề.

 

Hiến Cúng Bằng Pháp

Bấy giờ từ trong đại hội, Đế thích thưa với Phật, bạch đức Thế tôn, tuy con từ đức Thế tôn và ngài Văn thù nghe đến hàng trăm hàng ngàn kinh điển, nhưng chưa hề nghe được kinh điển nói về thần lực siêu việtthật tướng quyết định như thế này. Theo chỗ con hiểu ý hướng của đức Thế tôn, nếu có chúng sinh nào nghe được kinh điển này, tin hiểu, tiếp nhận, ghi nhớ, nghiên cứu, thuộc lòng, thì chắc chắn được pháp thật tướng quyết định mà không còn nghi ngờ gì nữa, huống chi còn làm đúng theo kinh dạy. Người như vậy thì đóng nẻo đường ác, mở cửa đường lành, thường được chư Phật hộ trì, chiến thắng ngoại đạo, đàn áp ma quân, tu luyện tuệ giác, ở yên đạo tràng, đi theo dấu đi của đức Thế tôn. Bạch đức Thế tôn, nếu ai tiếp nhận, ghi nhớ, nghiên cứu, thuộc lòng, làm đúng kinh dạy, thì con và tùy thuộc của con hiến cúng, cung phụng. Bất cứ thôn xóm, thành thị, núi rừng, đồng nội, chỗ nào có kinh điển này, thì con và tùy thuộc của con vì nghe pháp mà đến chỗ ấy. Rồi ai chưa tin thì con làm cho họ tin tưởng, ai tin rồi thì con giữ gìn cho họ. Đức Thế tôn dạy, tốt lắm, Đế thích, tốt lắm, đúng như ông nói; Như lai tùy hỷ với ông. Kinh điển này diễn nói một cách phong phú về vô thượng bồ đềtuệ giác bất khả tư nghị của chư Phật quá khứ vị laihiện tại. Do vậy, Đế thích, thiện nam hay thiện nữ nào tiếp nhận, ghi nhớ, nghiên cứu, thuộc lòng, hiến cúng kinh điển này, thì thế là hiến cúng chư Phật cả ba thì gian.

Đế thích, giả sử chư Phật đầy cả đại thiên thế giới như mía, tre, lau, lúa, mè, rừng, rú. Nếu có thiện nam hay thiện nữ nào, hoặc một kiếp, hoặc dưới một kiếp, cung kính tôn trọng, tán dương hiến cúng chư Phật ấy, cung phụng những thứ để sống yên ổn. Khi chư Phật ấy nhập diệt, thì đem toàn thân xá lợi của mỗi ngài mà dựng những ngôi tháp bằng bảy chất liệu quí báu, chu vi bằng một đại lục nhân loại, cao đến Phạn thiên, trụ biểu tráng lệ. Dùng mọi thứ hoa, hương, vòng hoa, cờ, phan, âm nhạc, tất cả đều tinh tế bậc nhất, hiến cúng một kiếp hay dưới một kiếp. Đế thích, ý ông nghĩ thế nào, người ấy gieo trồng phước đức như vậy nhiều không ? Đế thích thưa, nhiều lắm, bạch đức Thế tôn; phước đức của người ấy nói cả trăm ngàn ức kiếp cũng không hết được. Đức Thế tôn dạy, Đế thích, ông nên biết thiện nam hay thiện nữ nào nghe kinh điển nói về sự giải thoát Bất khả tư nghị này, nghe rồi tin hiểu, tiếp nhận, ghi nhớ, nghiên cứu, thuộc lòng, làm đúng, thì phước của họ hơn phước của người trước. Tại sao như vậy, vì tuệ giác bồ đề của chư Phật đều xuất phát từ kinh điển này; tuệ giác bồ đề vô hạn thì phước đức của người ấy cũng vô hạn.

(41) Đức Thế tôn dạy Đế thích, quá khứ vô số kiếp, bấy giờ có đức Phật danh hiệu Dược vương, bậc Đến như chư Phật, bậc Thích ứng hiến cúng, bậc Biết đúng và khắp, bậc Hoàn hảo sự sáng, bậc Khéo qua niết bàn, bậc Lý giải vũ trụ, bậc Không ai trên nữa, bậc Thuần hóa mọi người, bậc Thầy cả trời người, bậc Tuệ giác hoàn toàn, bậc Tôn cao nhất đời. Thế giới của Ngài tên là Đại trang nghiêm, thời kỳ của Ngài tên là Trang nghiêm. Ngài sống lâu hai mươi tiểu kiếp. Thanh văn tăng của Ngài có ba mươi sáu ức na do tha. Bồ tát tăng của Ngài có mười hai ức. Đế thích, bấy giờ có vị luân vương tên là Bảo cái, đủ bảy thứ quí báu, thống trị cả bốn đại lục nhân loại. Luân vương có một ngàn người con, đẹp, khỏe, khả năng chiến thắng mọi kẻ thù nghịch. Luân vương Bảo cái cùng thân quyến hiến cúng đức Dược vương như lai, cung phụng mọi sự để sống yên ổn, tròn đầy năm kiếp như vậy. Qua thì gian ấy, luân vương Bảo cái nói với một ngàn người con, rằng các con hãy như ta, đem tâm trí sâu xa mà hiến cúng đức Thế tôn. Cả ngàn người con vâng mạng phụ vương, hiến cúng đức Dược vương tròn đầy năm kiếp, tất cả yên ổn. Trong số ngàn người con, có một vương tử tên là Nguyệt cái, ngồi nghĩ một mình, coi có cách gì hiến cúng hơn nữa. Do thần lực của đức Dược vương, trong không gianthiên nhân bảo, rằng Thiện nam tử, hiến cúng bằng chánh pháp thì hơn hết mọi sự hiến cúng. Vương tử Nguyệt cái tức thì hỏi hiến cúng bằng chánh pháp là thế nào? Thiên nhân nói, vương tử nên đến hỏi đức Dược vương như lai. Ngài sẽ dạy đầy đủ cho vương tử về sự hiến cúng bằng chánh pháp. Vương tử Nguyệt cái liền đến đức Dược vương như lai, lạy ngang chân Ngài, rồi đứng qua một phía, thưa rằng bạch đức Thế tôn, trong mọi sự hiến cúng, sự hiến cúng bằng chánh pháp là hơn cả, vậy hiến cúng bằng chánh pháp là thế nào? Đức Dược vương như lai dạy, Thiện nam tử, hiến cúng bằng chánh phápkinh pháp sâu xa của Như lai thuyết ra, thế giới khó tin khó nhận, tinh tế khó thấy, trong sáng không bẩn, không phải chỉ có tư duy phân biệt mà có thể thủ đắc. Kinh pháp ấy thuộc về kho tàng chánh pháp của bồ tát. Kinh pháp ấy được khuôn dấu tổng trì đóng dấu, đưa đến địa vị Không còn thoái chuyển, hoàn thành sáu độ, khéo phân biệt nghĩa, thuận bồ đề pháp, đứng trên các kinh. Kinh pháp ấy làm cho nhập vào đại từ bi, xa ma quân, khử tà kiến, thuận theo đạo lý duyên khởi chứ không chấp bản ngã, không chấp linh hồn, không chấp sinh thể, không chấp sinh mạng, phù hợp với không, không tướng, không tác, không khởi. Kinh pháp ấy làm cho chúng sinh ngồi đạo tràng, chuyển pháp luân, chư thiên long thần đều tán dương, khen ngợi. Kinh pháp ấy làm cho chúng sinh nhập vào kho tàng Phật pháp, thống nhiếp trí tuệ của hiền thánh, thuyết minh đường đi của bồ tát. Kinh pháp ấy căn cứ vào thật tướng các pháp mà nói rõ vô thường, đau khổ, không thật, không ngã, dứt bặt, cứu được chúng sinh phá giới. Ma quân, ngoại đạo, và những kẻ tham trước, đều bị làm cho sợ hãi, còn chư Phật hiền thánh thì ai cũng tán dương. Kinh pháp ấy chống khổ sinh tử, chỉ vui niết bàn, do chư Phật trong mười phương ba đời tuyên thuyết. Nếu nghe được kinh pháp như vậy mà tin hiểu, tiếp nhận, ghi nhớ, nghiên cứu, thuộc lòng, dùng phương tiện lực mà phân tích, giải thích, khai thị và giữ gìn kinh pháp như vậy cho chúng sinh, như thế gọi là hiến cúng bằng chánh pháp. Lại nữa, đối với các pháp hãy thực tu đúng như lời dạy. Hãy thích hợp mười hai duyên khởi mà tách rời tà kiến, được vô sinh nhẫn. Quyết định không bản ngã, không sinh thể, nhưng đối với quả báo duyên khởi thì không chống đối, không tranh biện, tách rời mọi thứ sở hữu của bản ngã. Y theo nghĩa mà không y theo lời, y theo trí mà không y theo thức, y theo kinh liễu nghĩa mà không y theo kinh không liễu nghĩa, y theo pháp mà không y theo người. Thuận với thật tướng các pháp, không hội nhập, không qui túc. Vô minh hủy diệt triệt để nên các hành cũng hủy diệt triệt để, cho đến sinh hủy diệt triệt để nên lão tử cũng hủy diệt triệt để. Hãy quan sát như vậy, như vậy duyên khởi không có cùng tận, cũng không có phát khởi, như thế đó gọi là sự hiến cúng bằng chánh pháp tối thượng. Đức Thế tôn bảo Đế thích, vương tử Nguyệt cái từ nơi đức Dược vương như lai nghe pháp như vậy thì được đức nhẫn nhu thuận, tức khắc cởi áo khoác quí báu và đồ trang sức mà hiến cúng đức Dược vương như lai, rồi thưa Ngài, bạch đức Thế tôn, sau khi Ngài nhập diệt, con sẽ làm theo sự hiến cúng chánh pháphộ trì chánh pháp. Nguyện xin đức Thế tôn đem uy thần mà thương tưởng xây dựng cho con, làm cho con chiến thắng ma quân, tu hạnh bồ tát. Đức Dược vương như lai biết tâm lý sâu xa của vương tử Nguyệt cái, nên thọ ký rằng sau này ông sẽ là thành trì của chánh pháp. Đế thích, bấy giờ vương tử Nguyệt cái thấy pháp thanh tịnh, nghe Phật thọ ký, nên đem đức tinxuất gia, tu tập pháp lành. Tinh tiến không bao lâu, tỷ kheo Nguyệt cái được năm thần thông, đủ bồ tát đạo, được tổng trì, hùng biện bất tận. Sau khi đức Dược vương như lai nhập diệt, tỷ kheo Nguyệt cái sử dụng thần thông, tổng trì và hùng biện của mình, trọn vẹn mười tiểu kiếp phân bố pháp luân mà đức Dược vương như lai đã chuyển. Tỷ kheo Nguyệt cáigiữ gìn chánh phápnỗ lực tinh tiến, nên chính cái thân ấy đã làm cho trăm vạn ức người đứng nơi vô thượng bồ đề mà không còn thoái chuyển, làm cho mười bốn na do tha người phát khởi một cách sâu xa tâm chí thanh văn duyên giác, làm cho vô lượng chúng sinh được sinh chư thiên. Đế thích, luân vương Bảo cái lúc ấy có phải ai đâu, mà chính là vị đã được thành Phật với danh hiệu Bảo diệm như lai. Còn ngàn vương tử là ngàn đức Phật trong Hiền kiếp, đầu tiên là đức Ca la, cuối cùng là đức Lâu chí. Trong đó, tỷ kheo Nguyệt cái chính là bản thân của Như lai.

Đế thích, hãy nhận thức cái điều cốt yếu đó. Rằng trong mọi sự hiến cúng, hiến cúng chánh pháp mới là tối thượng, mới là bậc nhất, không gì có thể sánh bằng. Do vậy, Đế thích, hãy đem sự hiến cúng chánh pháp mà hiến cúng Như lai.

 

Ký Thác Từ Tôn

Bấy giờ đức Thế tôn nói với Di lạc đại sĩ, Như lai ngày nay đem cái pháp vô thượng bồ đề đã tập hợp trong vô số kiếp mà ký thác cho đại sĩ. Kinh pháp như thế này, sau khi Như lai nhập diệt, trong thời kỳ cuối cùng của Phật pháp, đại sĩ hãy vận dụng thần lựclưu hành tại đại lục Diêm phù, đừng để mất đi. Trong thời kỳ sau này, sẽ có thiện nam thiện nữ, có thiên long quỉ thần, có càn thát bà, la sát, v/v, phát tâm vô thượng bồ đề, ưa thích kinh pháp vĩ đại. Nếu để cho họ không nghe được kinh pháp như thế này thì họ mất lợi ích tốt đẹp. Nếu họ nghe được kinh pháp như thế này thì chắc chắn tin tưởngthích thú nhiều lắm, phát tâm hiếm có, đem đỉnh đầu của mình mà tiếp nhận, rồi tùy người thích ứng ích lợi như thế nào mà giảng giải phong phú. Di lạc đại sĩ, nên nhận thức bồ tát có hai sắc thái. Sắc thái thứ nhất là ưa thích văn từ hay ho. Sắc thái thứ hai là không e ngại ý nghĩa sâu xa mà lại chính xác nhập vào. Ưa thích văn từ hay hobồ tát mới tu học. Một cách không e ngại, nhập vào kinh pháp sâu xa và không nhiễm trước như thế này, nghe rồi thì tâm trí thanh tịnh, tiếp nhận, ghi nhớ, nghiên cứu, thuộc lòng, làm đúng kinh dạy, thì nên nhận thức họ là bồ tát tu học đã lâu. Di lạc đại sĩ, lại có hai điều nữa gọi là người mới tu học, không thể quyết định đối với kinh pháp sâu xa này. Ấy là một, đối với kinh pháp sâu xa này, chưa nghe thì nghe rồi kinh hoảng, hoài nghi, không thể thuận theo, phỉ báng, không tin, và phát ngôn rằng kinh pháp này tôi chưa nghe nói đến bao giờ, từ đâu mà có ra đây. Hai, gặp người hộ trìgiải thích kinh pháp sâu xa này thì không những không chịu thân gần, tôn kính, phụng sự, mà có khi còn công kích. Có hai điều như vậy thì biết đó là bồ tát mới tu học, tự thương tổn, không thể thuần hóa tâm mình trong kinh pháp sâu xa này. Di lạc đại sĩ, lại có hai điều nữa, bồ tát tuy tin hiểu kinh pháp sâu xa này mà vẫn tự thương tổn, không thể thực hiện vô sinh pháp nhẫn. Hai điều ấy, một là khinh dễ bồ tát mới tu học mà không giảng giải cho họ, hai là tin hiểu kinh pháp sâu xa này mà lại phân biệt, chấp trước.

Di lạc đại sĩ nghe đức Thế tôn dạy như vậy thì thưa Ngài, bạch đức Thế tôn, thật là chưa từng có. Như đức Thế tôn đã huấn dụ, con sẽ tránh xa những điều bất thiện như vậy, kính giữ pháp vô thượng bồ đềđức Thế tôn đã tập hợp trong vô số kiếp. Trong thì vị lai, thiện nam hay thiện nữ nào tìm cầu đại thừa, thì con sẽ làm cho chính tay của họ có được kinh pháp này. Con sẽ đem lại cho họ sức mạnh ký ức, làm cho họ tiếp nhận, ghi nhớ, nghiên cứu, thuộc lòng, loan báo và giải thích rộng rãi. Bạch đức Thế tôn, sau này, trong thời kỳ cuối cùng của Phật pháp, nếu có ai có khả năng tiếp nhận, ghi nhớ, nghiên cứu, thuộc lòng, loan báo và giải thích về kinh pháp này, thì nên nhận thức toàn là thần lực Di lạc xây dựng. Đức Thế tôn dạy, tốt lắm, Di lạc, tốt lắm; như lời đại sĩ nói, Như lai tùy hỷ cho đại sĩ.

Các vị bồ tát khác cũng chắp tay mà thưa Phật, bạch đức Thế tôn, sau khi Ngài nhập diệt, chúng con cũng lưu hành kinh pháp vô thượng bồ đề này trong mọi thế giới. Chúng con lại mở mắt dắt đường cho những người thuyết pháp có được kinh pháp này.

Lúc ấy bốn vị Thiên vương cũng thưa Phật, bạch đức Thế tôn, bất cứ chỗ nào, thành thị hay thôn xóm, núi rừng hay đồng nội, ở đâu có cuốn kinh pháp này, có người nghiên cứu và thuộc lòng, loan báo và giải thích, thì chúng con sẽ huy động thuộc hạ của chúng con, vì nghe pháp mà đến chỗ ấy, hộ trì người ấy, làm cho trong phạm vi một trăm do tuần, không một ai rình được cơ hội thuận tiệntác hại.

Bấy giờ đức Thế tôn dạy tôn giả A nan, tôn giả hãy tiếp nhận kính giữ kinh pháp này, lưu hành rộng rãi. Tôn giả A nan thưa Phật, dạ, bạch đức Thế tôn, con nguyện tiếp nhận và kính giữ kinh pháp chính yếu này. Bạch đức Thế tôn, kinh pháp chính yếu này nên mệnh danh là gì? Đức Thế tôn dạy tôn giả A nan, kinh pháp chính yếu này tên là Trưởng giả Duy ma tuyên thuyết, cũng tên là Pháp môn giải thoát bất khả tư nghị. Tôn giả hãy tiếp nhận và kính giữ như vậy.

Khi đức Thế tôn tuyên thuyết hoàn tất kinh pháp này, thì trưởng giả Duy ma, đại sĩ Văn thù, tôn giả Xá lợi phất, tôn giả A nan, v/v, cùng với chư thiên, nhân loại, tu la, tất cả đại hội nghe những điều đức Thế tôn tuyên thuyết, ai cũng rất hoan hỷ, tin tưởng, tiếp nhậnphụng hành.

22.10.2535


Viết Tắt

La : La thập

Huyền : Huyền tráng

Triệu : Tăng triệu

Cơ : Khuy cơ


Ghi Chú

Ghi Chú (1)

Triệu giải: đại trínhất thế chủng trí, bản hạnh của đại trílục độ, lục thông. Huyền dịch: nghiệp đại thần thông.

 

Ghi Chú (2)

Thiên đế thích hay Đế thích.

 

Ghi Chú (3)

Nói rõ là chánh định tụ: người đã chắc chắn thuộc nhóm đã theo chánh pháp - Trái lạità định tụ.

 

Ghi Chú (4)

Đọc niệm xử (= niệm trú) đúng hơn.

 

Ghi Chú (5)

Huyền dịch: khéo nói mật ý.

 

Ghi Chú (6)

Tham khảo Huyền dịch mà dịch. Nếu theo Triệu giải thì chỉ là tham gia tư pháp.

 

Ghi Chú (7)

La giải: không phải như nội quan của Tàu, mà ở Ấn độ dùng những người nhiều đời trung lương, kỳ cựu và có đức để làm nội quan dạy bảo cung nữ.

 

Ghi Chú (8)

Sinh mệnh (thọ, thọ giả tướng), tái sinh (bổ đặc dà la: nhân, nhân tướng).

 

Ghi Chú (9)

Động lực (phong đại, động).

 

Ghi Chú (10)

La giải: là giếng khô trên gò. Xưa có tội nhân chạy trốn, bị cho voi say đuổi theo. Cấp bách quá, người này nhảy xuống giếng khô. Lưng chừng giếng có 1 cái giây cỏ mục, người ấy nắm lấy. Dưới có rồng độc ngước lên, ngang người có 5 rắn độc muốn cắn. Lại có 2 con chuột gặm nhấm giây cỏ mục. Giây cỏ sắp đứt, voi say đã đến ở trên. Nguy khốn cùng cực như vậy thì trên giếng có cây, từ cây ấy rơi xuống những giọt mật, vào miệng người ấy: người ấy quên cả nguy khốn. Giếng là sinh tử. Voi say là vô thường. Rồng độc là đường dữ, 5 rắn độc là 5 uẩn, giây cỏ mục là sinh mệnh, 2 con chuột là ngày tháng, những giọt mật là ngũ dục. Huyền dịch và Cơ giải: như cấp bậc xuống giếng. Ấn độ xưa làm giếng, xoi giếng đặt ván làm cấp bậc để xuống lấy nước. Cấp bậc ấy rất dễ hỏng.

 

Ghi Chú (11)

Chính văn là đệ tử. Thanh văn là nghe tiếng nói của Phật mà ngộ đạo, vậy thanh văn chính nghĩađệ tử.

 

Ghi Chú (12)

Sinh thể: chúng sinh. Sinh mệnh: thọ mạng. Tái sinh: nhân.

 

Ghi Chú (13)

La giải: tiếp xúcchứng đắc.

 

Ghi Chú (14)

Huyền dịch: đem pháp tánh bình đẳng vô gián mà nhập giải thoát.

 

Ghi Chú (15)

Có bản chép thêm: không không thủ đắc đaÍo quả.

 

Ghi Chú (16)

Dám xuất gia trong ngoại đạo, với sự hết lòng hóa cải cho họ.

 

Ghi Chú (17)

Nói tổng quát, đây là những nghịch hành mà có khi vì sự ích lợi chúng sinhPhật pháp buộc phải làm như vậy.

 

Ghi Chú (18)

Phi thời ở đây là công hạnh chưa đủ mà mong kết quả có được, là chưa cùng cực 3 giải thoát mônnửa đường thủ chứng. La giải và Triệu giải như vậy.

 

Ghi Chú (19)

La giải là cái mừng được thiền định và cái mừng chứng thật tướng.

 

Ghi Chú (20)

Dịch sát chính văn là không nói tội nhập vào quá khứ. La giải và Triệu giải : không nói tội thường còn, di chuyển từ vị lai đến hiện tại, từ hiện tại vào quá khứ. Huyền dịch đơn giản: không nói tội có di chuyển.

 

Ghi Chú (21)

La giải: pháp là thường lạc ngã tịnh của vọng tưởng. Bịnh là vọng tưởng. Nói không có pháp ấy, không có nghĩa pháp ấy có mà làm cho không đi, mà là không đi, trừ khử đi cái vọng tưởng.

 

Ghi Chú (22)

Phan duyên (níu vin) là mô tả sự biết.

 

Ghi Chú (23)

Triệu giải: chưa thâm nhập thật tướng, thấy có chúng sinh (kiến) mà sinh yêu thương (ái).

 

Ghi Chú (24)

Vòng (luân) chính nghĩa là bánh xe, nhưng có lẽ dịch là vòng thì đúng hơn. Tôi không rõ kyՠthuật làm gốm, nên không rõ dụng cụ và cách sử dụng dụng cụ này. Cũng không có giải thích nào rõ ràng. Đại khái đó là dụng cụ trong tay phải của người thợ gốm, xoay rất nhanh, phóng ra lại trở lại.

 

Ghi Chú (25)

Đúng chính văn, và tham chiếu Huyền dịch, thì phải dịch "chịu nổi". Nhưng tôi muốn chuyển ý nên dịch "làm được".

Ghi Chú (26)

Chính văn là Phật đạo. Danh từ này có nghĩa là tuệ giác của Phật, là đường đi của Phật... Tôi lấy nghĩa thứ hai, vì hợp với văn ý của phẩm này hơn. Huyền dịch là bồ đề phần, tức giác phần, quá xa văn ý phẩm này. Nhưng câu mở đầu, Huyền dịch: Lúc ấy ngài Diệu cát tường hỏi ngài Vô cấu xưng, bồ tát làm sao trong Phật pháp đến được nẻo đường rốt ráo? Ngài Vô cấu xưng thưa, nếu bồ tát đi theo nẻo đường không nên đi thì trong Phật pháp mới được rốt ráo. Chính lời dịch này cho thấy cái đề Phật đạo xác đáng hơn, và đề ấy dịch là đường đi của Phật hơn là dịch tuệ giác của Phật.

 

Ghi Chú (27)

La giải: là được vô sinh pháp nhẫn.

 

Ghi Chú (28)

Triệu giải: là các đạo giáo. Chính văn là chư đạo, có thể hiểu và dịch là các đường sinh tử, là các đạo giáo. Tôi chọn nghĩa thứ nhất.

 

Ghi Chú (29)

Huyền dịch: chân lý.

 

Ghi Chú (30)

La giải: không bẩn nhưng tắm cho mát (cho hết chướng ngại).

 

Ghi Chú (31)

Chính văn là nhất tâm. Huyền dịch là bồ đề tâm, chính xác hơn nên tôi chọn.

 

Ghi Chú (32)

Huyền dịch: ý thích siêu việt (thắng ý lạc).

 

Ghi Chú (33)

Huyền dịch: lấy sự sống trong sạch mà làm chăn gối.

 

Ghi Chú (34)

3 chỉnh cú 24 - 26 này là nói về tam tai: đao binh, tật dịch, cơ cẩn. (chiến tranh, nhiễm độc, nhân mãn).

 

Ghi Chú (35)

Số lượng = các hành, đối chiếu Huyền dịch mà biết như vậy.

 

Ghi Chú (36)

8 pháp này phân theo Huyền dịch.

 

Ghi Chú (37)

Triệu giải: thiền định tuy vui nhưng ở yên trong ấy thì đại đạo bất thành, nên thấy như địa ngục. La giải: Thiền định có 3: của đại thừa, của nhị thừa và của phàm phu. Phàm phu thì ngã mạn, nhị thừa thì tự lợi, toàn là phá hoại đạo căn vô thượng, nên bồ tát coi như địa ngục.

 

Ghi Chú (38)

Thái hư giải: là hoặc, nghiệp, khổ.

 

Ghi Chú (39)

Chính văn là Vô động. Vô động cũng dịch là Bất độngphổ thông hơn.

 

Ghi Chú (40)

Coi lại ghi chú 24 .

 

Ghi Chú (41)

Đoạn này là phụ lục 3 của bản dịch Pháp hoa của tôi, nhưng phụ lục 3 ấy là trích Pháp hoa bản Tấn dịch (Chính 9/99-100).
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19701)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23960)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41218)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19693)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 23980)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21746)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23301)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27504)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26570)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29317)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33195)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20192)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25771)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20915)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31318)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38577)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21437)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44258)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29825)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42201)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22139)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45756)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32109)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23954)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24391)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29272)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33918)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27680)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32132)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21064)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28848)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21580)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28063)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22073)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21435)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19497)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19470)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19835)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19245)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29181)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20620)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28298)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23650)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33183)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31844)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21374)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39623)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21550)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19376)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26394)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24824)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21757)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22384)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29131)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22554)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20471)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23516)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21238)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35321)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24547)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant