Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

10- Phật Hương Tích

14 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 7507)
10- Phật Hương Tích

BỒ TÁT CÓ BỆNH
BIÊN SOẠN VỀ KINH DUY MA CẬT

Thích Nữ Như Đức

Phật Hương Tích 

1- Giới thiệu cõi Phật Hương Tích

Mượn vấn đề ăn trưa để gián tiếp giới thiệu một cõi Phật mà cách hóa độ khác hẳn cõi Ta-bà. Cõi Phật Hương Tích, tên gọi là nước Chúng Hương, ở đó không có đệ tử Thanh văn Bích-chi, chỉ có hàng đại Bồ-tát thanh tịnh. Tất cả đều cấu tạo bằng hương: lầu đài, vườn tược, đất đai, thức ăn là hương thơm tràn khắp mười phương. Đức Phậtđại chúng cõi ấy đang thọ thực, Duy-ma-cật không rời chỗ ngồi mà hóa hiện một vị Bồ-tát với tướng hảo, uy đức và ánh sáng siêu việt, làm lu mờ cả đại chúng cõi này. Duy-ma-cật bảo vị hóa Bồ-tát đến cõi Chúng Hương xin một phần cơm dư của đức Phật Hương Tích để về làm Phật sự ở cõi Ta-bà, làm cho những người ưa thích pháp nhỏ đều phát tâm về Đại thừa.

Đoạn kinh này ngoài ý nghĩa đề cao uy lực của Duy-ma-cật, vốn đã được đề cao rồi, muốn chúng hội thấy một cõi Phật trang nghiêm để phát khởi tín tâm, trong đó còn hàm ngụ một nhận thức khoa học. Ngày nay khoa thiên văn khám phá trong vũ trụ có biết bao nhiêu hành tinh, bao nhiêu thế giới. Thế giới Chúng Hương có thể được cấu tạo bằng những chất nhẹ, có những yếu tố khác thế giới Ta-bà. Chúng sanh cõi đó cũng sinh hoạt khác, không phải ăn uống như chúng ta. Về việc một người có thể đến một thế giới cách xa như thế, và trở về trong khoảng bữa ăn thì hiện nay khoa học còn đang tìm những phương tiện du hành vũ trụ. Thuyết hóa thân cũng được sáng tỏ nếu sau này người ta thành công trong việc chế tạo phiên bản. Tóm lại cõi nước của Phật Hương Tích được giới thiệu như một hành tinh mà trình độ văn minh khoa học tiến xa hơn chúng ta. Những điều trình bày trong đoạn này không phải là quyền năng thần thông, nhưng được dự đoán bởi các nhà tu học chân chánh.

2- Công năng cơm Hương Tích

Khi các đại sĩ thấy hóa Bồ-tát đều ca ngợi và thưa hỏi đức Phật Hương Tích về cõi Ta-bà. Đức Phật bèn giới thiệu cõi phương dưới, đức Thích-ca đang hóa độ ở một nơi đầy những xấu ác tệ nạn, có những chúng sanh ưa tiểu pháp, Phật Thích-ca vì họ dạy đạo. Ở đó cũng có Bồ-tát tên Duy-ma-cật được sức giải thoát siêu việt, có công đức năng lựcthần thông rất lớn, mười phương đều có hóa thân đi làm Phật sự.

* Chúng ta ở cõi nhỏ nên tâm lượng nhỏ nhìn Duy-ma-cật như một cư sĩ, còn cõi Phật Hương Tích nhìn Duy-ma-cật như một đại Bồ-tát có những hành động phi thường. Người làm việc lớn có lượng thông cảm lớn cho nên Duy-ma-cật đã gặp được vị tri kỷ ở phương trên.

Chín trăm vạn vị Bồ-tát cõi Chúng Hương đều muốn đến thế giới Ta-bà, đức Phật căn dặn nên thâu bớt mùi hương nơi thân, thâu bớt oai nghi tướng hảo, và đừng khinh tiện cõi ấy khởi ý tưởng ngăn ngại. Vì sao? Vì mười phương cõi nước như hư không, và chư Phật vì hóa độ người thấp kém không thể hiện hết vẻ thanh tịnh của mình.

Khi vị hóa Bồ-tát cùng chúng đại sĩ về đến thành Tỳ-da-ly, Duy-ma-cật đã sắp sẵn những tòa sư tử đẹp để chào đón.

Ở đây nói về sự dung thông không ngăn ngại, nên trong ngôi thất nhỏ có thể chứa trăm vạn ức việc lạ lùng. Bấy giờ bát cơm thơm đã lan tỏa khắp thành Tỳ-da-ly và đại thiên thế giới. Những hàng cư sĩ… nghe hơi thơm đều thích thú, trưởng giả tử Nguyệt Cái cùng 84.000 người đều đến nhà Duy-ma-cật, các vị trời thần cõi Dục, cõi Sắc nghe hương thơm đều đến nhà Duy-ma-cật.

* Để diễn tả tính cách hương thơm làm Phật sự, chúng ta thấy mùi cơm thơm làm chúng sanh thân ý thơ thới, và đều nhận tín hiệu mà vân tập. Cơm là một thực phẩm nuôi sống, nhưng ở đây dùng thực phẩm mùi hương, chúng sanh dùng thức thực (ăn bằng ý thức), thực phẩm ấy nuôi lớn căn lành cho mọi người nên gọi là món ăn tinh thần.

Duy-ma-cật mời các vị Thanh văn thọ thực, lưu ý rằng cơm có mùi vị cam lộ của Phật, do đại bi huân ướp, nên không thể dùng ý thức có hạn lượng mà ăn, nếu sử dụng ý thức giới hạn thì ăn không tiêu. Dù chỉ là một bát cơm nhưng hết cả thế giới cùng ăn, mỗi vắt cơm lớn như núi mà ăn cả kiếp cũng không hết. Vì sao? Vì thức ăn dư của bậc đầy đủ công đức, bậc có vô tận Giới, Định, Huệ, Giải thoát, Giải thoát tri kiến thì không bao giờ cùng tận.

* Chúng sanh cũng có khả năng ăn suốt ngày, khi sáu căn gặp sáu trần. Nhưng chúng sanh ăn thức ăn vọng tưởng nên không an lạc, ăn từ vô lượng kiếp mà vẫn không no. Còn chỉ một chút ít cơm thừa của Phật, nhưng đó là từ thể tâm thanh tịnh, nên dù chỉ dùng một lần cũng đủ. Mã Tổ sau khi ngộ ở chỗ thiền sư Hoài Nhượng, khi thuyết pháp có vị tăng đến dò xét hỏi. Sư đã đáp “Từ loạn Hồ sau ba mươi năm, chưa từng thiếu tương muối.”

Khi đại chúng ăn cơm xong ai nấy đều cảm thấy thân an lạc, tâm vui, như các Bồ-tát ở thế giới “Nhất Thiết Lạc Trang Nghiêm”. Từ lỗ chân lông mọi người phát ra mùi thơm vi diệu như mùi các cây ở nước Chúng Hương.

Ăn cơm xong thì việc làm của Duy-ma-cật cũng gần xong. Đại chúng dù trời người hay hàng Thanh văn đều trở nên như Bồ-tát. Diễn tả mùi thơm từ lỗ chân lông có nghĩa là toàn thân, không sót một phần nào của cơ thể, toàn đại chúng không sót một ai đều được pháp vị, được lợi ích lớn. Cho nên từ đoạn này trở đi không còn chuyện các vị cằn nhằn, ngạc nhiên gì cả. Như vậy từ đầu hiện bệnh đến lúc thọ trai, Duy-ma-cật đã mời đại chúng dự một hội pháp lớn, đã trình diễn đủ phương tiện, làm các kiến chấp nhỏ hẹp rơi rớt hết. Kết thúc là một buổi tiệc thú vị phi thường. Ai cũng ăn được, cơm vẫn không hết, ai cũng có khả năng thành Phật, mà đất tâm y nhiên, chưa từng hao hụt mất mát, không phải vì mất phiền não mới được cơm Phật. Ở đây nhà thiền nói “Tròn đồng thái hư, không thiếu không dư”.

3- Các phương tiện giáo hóa

a- Sự khác nhau giữa hai thế giới

Duy-ma-cật hỏi các vị Bồ-tát nước Chúng Hương về phương tiện thuyết pháp ở cõi ấy. Đức Phật Hương Tích không dùng văn tự, chỉ dùng hương thơm khiến mọi người vào chánh pháp. Bồ-tát cõi ấy ngồi dưới cội cây thơm nghe mùi hương thì được chánh định, đầy đủ mọi công đức.

Đối lại, khi được hỏi về cách giáo hóa của đức Thích-ca, Duy-ma-cật đã cho thấy được một kỳ công điều phục ở cõi này. Vì chúng sanh đều thuộc hạng cứng đầu khó dạy, đức Thích-ca phải dùng lời nói mạnh (khác với sự nhẹ nhàng của Phật Hương Tích). Nói bao nhiêu điều khổ ở địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh… dùng toàn lời nghiêm trọng. Nói về những tà hạnh của thân, miệng, ý và những quả báo dữ dội, nguy hiểm, ghê sợ của những lỗi lầm ấy. Lại còn phải chỉ dạy cặn kẽ: đây là giữ giới, đây là phạm giới, đây là nên làm, đây là không nên làm, đây là bị tội, đây là lìa tội, đây là sạch, đây là nhơ… Phân tích như thế này chỉ vì chúng sanh ngu si cang cường, tâm như khỉ vượn, vừa nghe liền quên, tâm luôn nhọc nhằn nắm bắt. Phải dùng toàn lời cay đắng, đau đớn như quất roi vào xương mới tỉnh ngộ. Chúng ta thấy những người thông minh hiền dịu chỉ cần nói một lời nhẹ cũng đủ sợ sệt biết lỗi, với người ngu đần hung dữ thì phải đánh mắng trị phạt, phải có luật lệ giam cầm mới sợ. Do đó những nhà tù, những hình phạt có ra chỉ vì đối với người ngu kẻ dữ.

Các Bồ-tát nước Chúng Hương nghe Duy-ma-cật nói xong đều nói rằng: Thật hiếm có! Như đức Phật Thích-ca phải che khuất vô lượng sức tự tại mà dùng những pháp của kẻ nghèo cùng ưa thích để độ thoát chúng sanh, các Bồ-tát cõi này cũng mệt nhọc khiêm tốn để dùng vô lượng đại bi mà sanh ở cõi này.

Như thế đã rõ, hai cõi Phật hai cách giáo hóa khác nhau. Chỉ vì căn cơ chúng sanh hạ tiện nên Phật cùng chư Bồ-tát kiên nhẫn dùng cách thức đối với người hạ tiện.

b- So sánh công đức hóa độ

Duy-ma-cật nói rằng: Đúng như lời các Ngài nói. Bồ-tát ở đây có lòng đại bi kiên cố. Nhưng một đời ở đây hóa độ nhiều hơn hóa độ công đức ở cõi khác trăm ngàn kiếp. Vì sao? Cõi Ta-bà có mười việc lành mà các cõi tịnh độ khác không có:

1- Dùng bố thí nhiếp phục bần cùng.

2- Dùng tịnh giới nhiếp phục phá giới.

3- Dùng nhẫn nhục nhiếp phục sân hận.

4- Dùng tinh tấn nhiếp phục giải đãi.

5- Dùng thiền định nhiếp phục loạn ý.

6- Dùng trí tuệ nhiếp phục ngu si.

7- Nói pháp trừ nạn để độ tám nạn.

8- Dùng pháp Đại thừa độ người ưa Tiểu thừa.

9- Dùng các căn lành cứu tế người không có đức.

10- Thường dùng tứ nhiếp pháp thành tựu chúng sanh.

Như thế Bồ-tát tu ởû cõi Ta-bà công đức nhiều gấp trăm ngàn lần các Bồ-tát ở những cõi tịnh độ khác. Vì ở đây các vị có dịp thực hành lục ba-la-mật, rèn luyện thêm những đức tốt. Nói là độ sanh vì người nhưng khi thực hành các việc lành chính là thành tựu công hạnh cho mình. Như giáo sư giảng dạy, vì phải nghiên cứu kỹ nên lại giỏi hơn, thông suốt vấn đề hơn. Như thế tu ở cõi Ta-bà không có gì phải nản lòng.

c- Tám hạnh lành của Bồ-tát

Bồ-tát nước Chúng Hương hỏi: Ở thế giới này Bồ-tát thành tựu bao nhiêu pháp mới được trọn vẹn không khiếm khuyết?

Duy-ma-cật đáp: 

- Thành tựu tám pháp:

1- Làm lợi ích chúng sanh mà không mong báo đáp.

2- Thay thế tất cả chúng sanh thọ khổ mà có bao nhiêu công đức đều cho hết.

3- Tâm bình đẳng đối với chúng sanh, khiêm tốn vô ngại.

4- Đối với các Bồ-tát xem như Phật, với kinh chưa nghe, nghe mà không nghi.

5- Đối với Thanh văn không có tâm chống trái.

6- Không ganh ghét khi người được cúng dường, không đề cao lợi dưõng của mình, mà đối với những việc ấy thường điều phục tâm.

7- Thường cảnh tỉnh lỗi mình, không tuyên truyền lỗi người.

8- Thường nhất tâm cầu các công đức.

Trong tám điều lành chúng ta có thể chia ra như sau. 

Ba điều lành đối với chúng sanh (1-2-3), rất khó không phải dễ. Làm lợi ích cho họ, thay thế khổ cho họ mà lại có tâm bình đẳng. Bồ-tát không quán triệt ngã không pháp không thì căn lành không thành tựu

Hai điều 4-5 là đối với hàng Bồ-tát và Thanh văn nghĩa là tuy kính Bồ-tát mà không chê Thanh văn

Hai điều 6-7, là đối với những điều xảy ra cho mình, cho người. Tâm lý chúng sanh là ganh với người, khi thấy người có chút lợi lộc liền không ưa, với mình thì có lợi mấy cũng được. Và lỗi mình tự che, lỗi người cứ tuyên truyền. Những điều này tưởng như tầm thường nhưng nếu làm được một trong tám điều trên – nhất là 6-7 thì đã là hạnh Bồ-tát, được sanh về tịnh độ. Chúng ta nếu quyết tâm không ganh người, không đề cao mình thì hạnh lành viên mãn. Và cũng nên hiểu rằng nếu thành tựu tám điều trên đây, thì hương thơm hạnh lành của chúng ta đã xông ngát cho mười phương cõi, nơi ta ở là tịnh đô hiện tiền. Đó là đại ý phẩm Phật Hương Tích. Mùi hương ở đây không ở nơi các loại hương liệu, nước hoa, mà chính từ ngay những công hạnh, qua tám điều kể trên.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15709)
Đại Chánh Tân Tu số 0018 - Hán dịch: Ðại Sư Pháp Hiền (đời Tống), Việt Dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 16402)
Giới là nguồn cội của hết thảy Thiện pháp, là nền tảng của Tam vô lậu học và mọi quả vị Giải thoát... Nguyên tác: Lý Viên Tịnh; Thích Giác Quả dịch
(Xem: 23626)
Tại Gia Bồ Tát Giới Bổn - 3 ngôn ngữ Anh, Việt, Hoa - Nhiều Tác Giả
(Xem: 17521)
Tập Tổng quan kinh Đại Bát Niết-bàn này được chúng tôi biên soạn như một phần trong công trình dịch thuật và chú giải kinh Đại Bát Niết-bàn... Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 81363)
Kinh Nhật Tụng - Kinh Tụng Hằng Ngày
(Xem: 19622)
Kinh Trường Thọ Diệt Tội Hộ Chư Đồng Tử Đà La Ni - Đời Đường, nước Kế Tân, Tam Tạng Sa môn Phật Đà Ba Ly vâng chiếu dịch, Việt dịch: Sa-môn Thích Thiện Thông.
(Xem: 20275)
Kiền Long Đại Tạng Kinh bao gồm 168 tập, chứa đựng 1669 bộ Kinh văn... Tổng hợp Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 47474)
Bấy giờ, năm trăm công tử Ly-xa, dẫn đầu bởi Bảo Tích (Ratnākāra), mỗi người mang theo một cây lọng quý, biểu hiệu quyền quý, đến vườn Xoài cúng dường Phật... Tuệ Sỹ
(Xem: 39241)
Trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 15851)
“Vũ trụ vạn hữu bản thể luận” của Định Hy là một kiến giải nhân sinh vũ trụ trên hai phương diện bản thểhiện tượng, tuy vậy không rời tính thực dụng của Phật pháp trong đời sống tu tập... Thích Đức Trí
(Xem: 23266)
Niệm Phật Vô Tướng - Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí, Nguyên tác: Tiêu Bình Thật cư sĩ, Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 19308)
Kinh Vô Lượng Nghĩa - Tam tạng pháp sư Đàm Ma Già Đà Da Xá, người Thiên-trúc, dịch từ Phạn văn ra Hán văn tại Trung-quốc, vào đời Tiêu-Tề; Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
(Xem: 15219)
Kinh Hạnh Nguyện Phổ Hiền - Tam Tạng pháp sư Bát Nhã, người nước Kế-tân, dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào đời Đường; Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
(Xem: 16829)
Bản nầy thứ tự kinh văn số 1726 được khắc vào đời nhà Minh Vạn Lịch -Trung Quốc - và đang lưu trữ tại Báo Ân Tạng thuộc chùa Jojoji - Tăng Thượng tự - Tokyo, Nhật Bản... HT Thích Như Điển
(Xem: 13102)
Có lần Đấng Thế Tôn ngụ tại vùng của bộ tộc Thích-ca (Sakka) tại thành Ca-tì-la-vệ (Kapilavatthu) trong khu vườn Ni-câu-đà (Nigrodha).
(Xem: 13164)
Đây là những điều tôi nghe Bụt nói vào một thời mà người còn lưu trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ Đà. Hôm ấy, cư sĩ Cấp Cô Độc cùng với năm trăm vị cư sĩ khác đã tìm đến nơi cư ngụ của thầy Xá Lợi Phất.
(Xem: 49051)
Trong khế kinh, Đức Phật nói. "Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật"... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 23369)
Giới luậtsinh mệnh, là sự sống của Phật tử, nhất là của hàng Tỳ kheo thừa Như lai sứ, hành Như lai sự... HT Thích Trí Thủ
(Xem: 19454)
Ba học Giới, Định, Tuệ là những nhân tố then chốt nhất của người học Phật, như chiếc đỉnh ba chân, thiếu một tất không thể đứng vững. Nhưng giới học, hay là giới luật học, lại là căn bản nhất... HT Thích Thanh Kiểm
(Xem: 17199)
Luật Học Tinh Yếu - Muốn qua sông phải nhờ thuyền bè, muốn vượt bể khổ sinh tử phải nương nhờ Giới pháp... HT Thích Phước Sơn
(Xem: 32174)
Cúi đầu lễ chư Phật, Tôn Pháp, Tỳ-kheo Tăng, Nay diễn pháp Tỳ-ni, Để Chánh pháp trường tồn... HT Thích Trí Thủ dịch
(Xem: 27503)
Luật Tứ Phần - Việt dịch: HT Thích Đổng Minh; Hiệu chính và chú thích: Thích Nguyên Chứng, Thích Đức Thắng
(Xem: 14361)
Du Già Sư Địa Luận Thích - Trước tác: Bồ Tát Tối Thắng Tử; Hán dịch: Tam-Tạng Pháp Sư Huyền Trang; Việt dịch: Thích Tâm Châu
(Xem: 14829)
Pháp Hoa Tông Yếu, Thứ tự kinh văn số 1725 trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh do Ngài Nguyên Hiểu sọan chữ Hán, Sa Môn Thích Như Điển dịch.
(Xem: 18666)
Bộ Pháp Hoa Huyền Nghĩa xuất bản hôm nay không có một liên quan nào, về mọi phương diện, với những bộ Kinh danh đề tương tựchúng ta thấy trong Đại tạng... Chánh Trí Mai Thọ Truyền
(Xem: 16458)
Tỳ Kheo Huệ Chiểu chùa Đại Vân ở Chuy Châu sọan, Sa Môn Thích Như Điển Phương Trượng chùa Viên Giác Hannover Đức Quốc dịch từ Tiếng Hán sang tiếng Việt trên chuyến Hoằng Pháp Âu Châu năm 2013
(Xem: 13959)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, thuộc Luận Tập bộ toàn. Thứ tự kinh văn số 1663 (562-563)... HT Thích Như Điển
(Xem: 17319)
Tác Giả: Tăng Triệu Ðại Sư - Lược Giải: Hám Sơn Ðại Sư; Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 19419)
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú - Do HT Thích Như Điển dịch Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh
(Xem: 28081)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử tiếp tục truyền bá giáo lý của ngài trong nhân gian. Đồng thời, để bảo đảm giáo lý của ngài một cách trung thực cho hậu thế, họ đã gom lại kết tập để soạn thành một tập toàn bộ kinh điển.
(Xem: 14425)
Toàn thể đại dụng, thu nhiếp xưa nay ngay trên đường; dứt trí tuyệt ngu, vật và ta ngang bằng nơi kiếp ngoại ... HT Thích Thiện Siêu
(Xem: 16975)
Luận về Pháp Hoa Kinh An Lạc Hạnh Nghĩa - Phiên dịch, chú giải: Daniel B. Stevenson & Hiroshi Kanno - Phiên dịch, thi hóa: Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm
(Xem: 22214)
Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ, bao gồm nghĩa lý thâm thiết để cởi mở nghiệp khổ cho chúng sanh... HT Thích Thiện Siêu dịch
(Xem: 23352)
Thiện nam tử! Có một loại pháp Bồ tát nên diệt trừ. Ðó là pháp tham. Thiện nam tử ! Ðây là một pháp phải nên diệt trừ vĩnh viễn.
(Xem: 28060)
Bộ kinh Lăng Nghiêm Tông Thông này được Ngài Thubten Osall Lama, tức Nhẫn Tế thiền sư, Đức Sơ Tổ Tây Tạng Tự, dịch và chú thích thêm từ bản Hán văn sang Việt văn...
(Xem: 64906)
Một thuở nọ Thế-tôn an-trụ Xá-vệ thành Kỳ-thụ viên trung, Mục-liên mới đặng lục-thông, Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm-luân.
(Xem: 33283)
Thế Tôn, nếu con nghĩ rằng con đắc đạo A La Hán, thì Thế Tôn chẳng nói Tu Bồ Đề là một hành giả thanh tịnh hạnh. Vì Tu Bồ Đề vốn là vô sở hành...
(Xem: 40230)
Tam thế chư Phật, chư Đại-Bồ-tát, thật chứng và nhập một với Pháp-giới-tính nên phát-khởi vô-duyên đại-từ, đồng-thể đại-bi, hiện ra vô số thân, theo duyên hóa-độ vô-lượng vô-biên chúng-sinh...
(Xem: 25166)
Luật nghi của Đức Thế Tôn chế định vì bảo hộ Tăng-già, thanh qui của Tùng Lâm đặt định để thành tựu pháp khí cho già lam, pháp thức hành trì cho cư gia phật tử để xây nền thiện pháp...
(Xem: 50290)
Khi bạn tiếp tục tiến tới trên đạo lộ một cách đúng đắn, với ý định trở thành một con người giác ngộ, bạn phải kiểm soát tâm theo đúng cách...
(Xem: 38601)
Sách này thâu kết lời giảng của đức Đalai Lama về bài kinh ngắn mang tựa đề Bát Nhã Tâm Kinh, một trong những bộ kinh Phật giáo Ðại thừa quý giá nhất.
(Xem: 27368)
Kinh Trường Bộ thi hóa (3 tập) - Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli - Chuyển thể Thơ: Giới Lạc Mai Lạc Hồng
(Xem: 28628)
Trọng tâm cứu khổ của Ngài Quán Thế Âm nhằm giải thoát sự khổ tâm, khổ tinh thần. Một khi con người đã giải thoát khổ tinh thần thì thân thể sẽ lành mạnh.
(Xem: 52289)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 35937)
Địa Tạng Bồ Tát Bản Tích Linh Cảm Lục - Liêu Nguyên dịch, Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 32944)
Kinh Kim Cương lấy vô tướng làm tông, vô trụ làm thể, diệu hữu làm dụng. Từ khi Bồ-đề Đạt-ma đến từ Tây Trúc truyền trao ý chỉ kinh này khiến người đời ngộ lý đạo, thấy tính.
(Xem: 50897)
Sự giải thoát tinh thần, theo lời dạy của Ðức Phật, được thành tựu bằng việc đoạn trừ các lậu hoặc (ô nhiễm trong tâm). Thực vậy, bậc A-la-hán thường được nói đến như bậc lậu tận...
(Xem: 74962)
Kinh chữ Hán - ĐĐ. Thích Hạnh Phú sưu tầm & biên soạn
(Xem: 36191)
Sắc là vô thường. Vô thường tức là khổ. Khổ tức là chẳng phải ta. Cái gì chẳng phải ta thì cũng chẳng phải sở hữu của ta. Quán sát như vậy gọi là chân thật chánh quán.
(Xem: 49040)
Người nhất tâm nghe kinh có hai hạng: nghe rồi thọ trì pháp và nghe rồi không thọ trì pháp. Người nghe rồi thọ trì pháp là hơn, người nghe rồi không thọ trì pháp là kém.
(Xem: 31055)
Nếu dùng hình sắc để thấy ta, Dùng âm thanh để cầu ta, Người nầy hành tà đạo, Chẳng thể thấy Như Lai... HT Thích Như Điển
(Xem: 33995)
Kinh Bại Vong (Parabhava-sutta) rút từ Tập Kinh (Suttanipata), kệ số 91-115, trang 18-20, Pali Text Society... HT Thích Thiện Châu dịch
(Xem: 28956)
Trải qua nửa thế kỷ thuyết pháp độ sinh, Ðức Ðạo sư đã hóa độ đủ mọi hạng người, không phân biệt màu da, chủng tộc, giai cấp, sang hèn... Thích Phước Sơn
(Xem: 58883)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 46320)
“Ðức Thế Tôn nghe Phạm vương ba lần ân cần thưa thỉnh, liền dùng Phật nhãn soi khắp thế giới chúng sanh, thấy sự ô nhiễm của chúng sanh có dày có mỏng...
(Xem: 43865)
Khi Đức Phật nói danh hiệu chư Phật đời quá khứ, có mười ngàn Bồ Tát, được Vô sinh nhẫn, tám trăm Thanh Văn, phát thiểu phận tâm, năm ngàn Tỷ khưu...
(Xem: 43257)
Kinh vừa là Kinh Phật, lại vừa là miệng Phật. Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã...
(Xem: 45987)
Này các Kàlàmà, chớ có tin vì nghe báo cáo, chớ có tin vì nghe truyền thuyết; chớ có tin vì theo truyền thống; chớ có tin vì được kinh điển truyền tụng...
(Xem: 48067)
Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Trọn bộ 11 tập - 600 cuốn; Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: HT Thích Trí Nghiêm
(Xem: 63788)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant