Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

11- Bồ Tát Hạnh

14 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 7484)
11- Bồ Tát Hạnh

BỒ TÁT CÓ BỆNH
BIÊN SOẠN VỀ KINH DUY MA CẬT

Thích Nữ Như Đức

Bồ Tát Hạnh

1- Sự thay đổi ở vườn Yêm-la

Chủ yếu của kinh Duy Ma Cậtthuyết minh về hạnh Bồ-tát, hạnh rộng lớn nguyện làm đẹp cuộc đời. Từ tâm địa thấp nhỏ của phàm phu muốn đổi sang tâm rộng lớn, cần có một sự chuyển biến. Những phẩm trước, phần chuẩn bị đã xong, đến phẩm này chính thức xuất hiện tâm nguyện Bồ-tát. Cho nên đất đai hốt nhiên rộng lớn đẹp đẽchúng hội cũng đều sáng chói như vàng ròng. Điều này cho thấy phù hợp với câu mở đầu của kinh, là “Tùy theo tâm tịnh mà Phật độ tịnh”. Tâm nguyện rộng lớn là điều kiện căn bản cho hạnh Bồ-tát, tâm rộng cho nên đất đai vườn tược rộng, điều đó báo trước rằng Bồ-tát sẽ đến, nên trong văn kinh Phật bảo A-nan:

- Duy-ma-cật, Văn-thù và đại chúng muốn đến thăm ta.

Ở bên thành Tỳ-da-ly, Văn-thù cũng nói với Duy-ma rằng:

- Nên đi, nay chính là đúng lúc. Có nghĩa là tâm mọi người đã đến đúng thời phát khởi.

Duy-ma-cật dùng thần lực đem hết cả đại chúng cùng tòa ngồi, để trong tay hữu mà đưa đến trước Phật. Sự di chuyển quá ư dễ dàng. Bởi vì nhà thiền có câu: “Tất cả cõi nước nằm trong con mắt của sa-môn”, tâm lượng nhỏ hẹp nên phân biệt đây kia ngăn trở, khi tâm lượng dung thông thì chốn chốn nơi nơi đều là nhà mình. Biểu hiện thần thông của Duy-ma-cật cho thấy là vừa phát ý liền đến, vừa mở tâm liền rộng, chẳng có giới hạn.

Các chúng Bồ-tát đến nơi đảnh lễ Phật, ngồi yên nơi tòa. Phật hỏi ngài Xá-lợi-phất:

- Ông thấy hành động thần lực tự tại của Bồ-tát chăng?

Ngài Xá-lợi-phất xác nhận đó là điều không thể đo lường, không thể nghĩ bàn. Vì trí hiểu biết hạn cuộc thế gian không thể nào thông cảm được tâm Bồ-tát, như khi chúng ta đọc chuyện tiền thân Phật bố thí thân mình cho cọp đói, chúng ta vẫn không nghĩ ra có người như vậy. Trong cái vô biên vô cùng thì kiến thức chúng ta như con đom đóm, chỉ có Bồ-tát với Bồ-tát mới thông cảm. Và các Ngài khuyên mình “Đừng suy nghĩ đo lường”, tắt hết so đo mới đến được cõi Phật.

2- Giá trị cơm Hương Tích

Ngài A-nan bỗng nghe mùi hương lạ, trước chưa từng có, nên hỏi Phật. Phật bảo là mùi hương từ lỗ chân lông của các vị Bồ-tát. Bồ-tát đến cõi này trang nghiêm quốc độ, đem mùi hương đến giới thiệu. Mùi hương không phát xuất từ nước hoa, mỹ phẩm tầm thường, mà phát xuất từ cơm Hương Tích. Cơm đó có công năng làm Phật sự, như một chất liệu Phật pháp, chúng sanh nương nơi cơm pháp này thành tựu đạo nghiệp. Duy-ma-cật bảo với A-nan về giá trị của cơm Hương Tích, tùy theo người ăn:

- Nếu là hàng Thanh văn chưa đắc quả, ăn cơm ấy đắc Tứ quả, cơm mới tiêu – Không phải là loại cơm khó tiêu, nhưng vì còn lậu hoặc nên cơm không tiêu, ý là như thế.

- Người chưa phát ý Đại thừa thì ăn cơm này đến khi phát ý Đại thừa mới tiêu.

- Người đã phát ý, ăn cơm này đến khi được Vô sanh nhẫn mới tiêu.

- Người được Vô sanh nhẫn ăn cơm này đến địa vị Nhất sanh bổ xứ (Là Bồ-tát còn một đời thành Phật) mới tiêu.

Như vậy ăn cơm này chỉ có tiến chớ không lùi, giúp người tu tiến thẳng tới chỗ rốt ráo. Cơm dùng để nuôi sống thân mạng, mà cơm đây nuôi sống Sự giải thoát, khi nào còn một chút triền phược thì pháp môn tu tập vẫn còn cần thiết như cơm cần cho người.

3- Những phương tiện Phật sự

Nhân một bát cơm cõi Phật Hương Tích có thể làm Phật sự lớn lao, đức Phật giới thiệu những phương tiện của chư Phật dùng để hóa độ chúng sanh, ứng hợp căn cơ ý thích của mỗi loài mỗi cõi mà có ra những cách thức làm Phật sự.

Có cõi nước dùng ánh sáng của Phật, như chúng ta dùng đèn trang trí tượng Phật, tạo nghiêm sức và gây tín tâm cho người, cũng là dùng ánh sáng làm Phật sự

Có cõi nước dùng các vị Bồ-tát làm Phật sự, Bồ-tát như các vị hảo tâm, các nhà từ thiện nguyện cứu trợ chúng sanh. Dùng người biến hóa của Phật, Phật thường ẩn đi thân tướng hảo, để các hóa thân ứng hợp với tâm chúng sanh, vì người biến hóa thì thiên hình vạn trạng. Một người Châu Phi chỉ cảm phục người Châu Phi, cũng có vị bác sĩ Tây phương hy sinh vào nước chậm tiến để cứu độ, đó cũng là người biến hóa của Phật.

Dùng các hình thức như cây Bồ-đề, y phục ngọa cụ của Phật để làm Phật sự, như chúng ta chiêm bái Thánh tíchkhởi tâm cảm mến.

Cho đến dùng hư khônglàm Phật sự. Hư không như nhiên chẳng đến chẳng đi, buông hết mọi thứ để tâm trống rỗng như hư không thinh lặng, cũng là một cách tu.

Dùng các thứ vô thường mau chóng chợt có chợt không, hoặc là không thật như giấc mộng, những cách này dễ tác động đến tâm lý chúng sanh. Có chứng kiến ảo ảnh thay đổi, có thấy được sự phù du, như tấn tuồng trên sân khấu, chúng ta mới thức tỉnh mà lo tu tập.

Nói rằng tất cả cách thức chúng ta gặp hoặc mọi oai nghi ngồi đứng của chư Phật đều là Phật sự, cho đến trần lao phiền não cũng đáng trân trọng, vì đó là hình ảnh Phật sự. Đó là với tâm Phật thì nhìn đâu cũng là Phật. Phần này Phật giới thiệu những phương tiện giáo hóa, cũng là muốn nhắc nhở chúng ta khi tiếp cận với đời sống hằng ngày, mọi âm thanh sắc tướng đều là con đường đưa chúng ta vào đạo. Ngài Linh Vân thấy hoa đào mà ngộ, ngài Hương Nghiêm nghe tiếng sỏi, một ngón tay của Câu Chi, Thủy Lão ăn một cái đạp của Mã Tổ… Tất cả đều là Phật sự, đều đưa người qua một phen chuyển biến, đều biến đất đai thành vàng ròng.

4- Vào pháp môn của tất cả chư Phật

Chư Phật dùng ngay cái mỏi mệt sợ hãi của chúng sanh về Tứ ma, về tám muôn bốn ngàn phiền nãolàm Phật sự. Ngay phiền não tức thành Bồ-đề. Lục Tổ nói:

Phật pháp tại thế gian
Bất ly thế gian giác
Ly thế mích Bồ-đề
Kháp như cầu thố giác.

Để đánh tan ý niệm quý tiện sang hèn, phân biệt kia đây, ở đầu phẩm đã ảnh hiện sự dung thông. Đến đây đức Phật nhắc lại.

Bồ-tát vào pháp môn này, pháp môn Bất nhị, khi thấy tất cả cõi Phật trang nghiêm đẹp đẽ thì đừng lấy đó làm mừng, không tham trước không tự hào. Khi Bồ-tát thấy tất cả cõi Phật nhơ uế đừng sanh tâm ưu sầu, e ngại, tiêu trầm (thối lui).

Một câu này cũng cảnh tỉnh chúng ta, đối trước mọi cảnh tượng đẹp xấu đừng cho là quan trọng. Nên xem tất cả là Phật độ, là việc Phật, là hình ảnh Phật. Như thế mới mạnh dạn bước vào đời, phát tâm làm việc lợi ích. Nếu chọn lựa thì chắc là không ai thích ở uế độ, không thành tựu được hạnh Bồ-tát.

Phật nhấn mạnh rằng: Công đức của chư Phật bình đẳng, vì giáo hóa chúng sanh mà hiện Phật độ không bình đẳng. Có nghĩa là cõi nào cũng cõi Phật, không cần ưa đây chán kia. Một đóa hoa bên đường giá trị bao nhiêu? Như một cõi Phật không kém.

Ba câu:

- Câu thứ nhất là Tam-miệu Tam Phật-đà.

- Câu thứ hai là Đa-đà A-già-độ.

- Câu thứ ba là Phật-đà.

Ba câu này, ý nghĩa như nhau, đồng nói đến thân tướngdiệu dụng công năng của chư Phật đồng nhau. Ý nghĩa này dù nói đến tận kiếp số cũng không hết, vì còn dùng ngôn ngữ văn tự là còn giới hạn, vì mỗi hạt bụi là một cõi Phật với sức biến hóa không lường, trùm khắp xưa nay.

Ngài A-nan bạch Phật rằng: “Con từ nay không dám tự cho mình là đa văn”. Đây chỉ là tượng trưng cho việc xả bỏ Thanh văn mà hướng về Bồ-tát, nên Ngài từ chối danh vị của mình. Phật khuyến khích thêm bằng cách giới thiệu trí tuệ của Bồ-tát. Biển sâu còn có thể đo lường, nhưng thiền định, trí huệ, tổng trì, biện tài, công đức của Bồ-tát không thể đo lường.

Một chút thần thông của Duy-ma-cật đây, tất cả hàng Thanh văn biến hóa hết sức trong trăm ngàn kiếp, cũng không làm được.

5- Pháp môn Tận Vô tận giải thoát

Các Bồ-tát nước Chúng Hương xin đức Phật dạy cho vài pháp môn để trở về nước mình.

Phật dạy pháp môn: Tận Vô tận giải thoát. Tận là hữu vi, Vô tậnvô vi, pháp môn này giải thoát cả hữu vi vô vi, vượt ra ngoài hữu vivô vi.

Hữu vi là các pháp có hình tướng hoại diệt. Bồ-tát đi vào pháp môn bất tận hữu vi nghĩa là không để pháp hữu vi chấm dứt, chấp nhận hình tướng sanh diệt của chúng sanh. Thế nên đi vào đời mà không bỏ đại từ, đại bi, giáo hóa chúng sanh không chán mỏi. Chúng sanhtượng trưng cho tất cả phiền lụy bất an, Bồ-tát vì đã có chí kiên quyết nên vào chốn sanh tử không sợ sệt, đối với vinh nhục không buồn vui. Đó là thái độ:

Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.
(TS. Vạn Hạnh)

Đối với sanh tử luân hồi tưởng như đi dạo trong lầu các. Có người hỏi thiền sư:

- Hòa thượng sau khi chết đi về đâu?

- Làm lừa làm ngựa.

- Rồi sau đó?

- Ta vào địa ngục.

- Hòa thượng là bậc đại thiện tri thức vì sao bị vào địa ngục?

- Ta không vào đó thì ai đến giáo hóa ông.

Một câu chuyện này cho thấy ý nghĩa Bồ-tát không chấm dứt Hữu vi, luôn dùng pháp dược của Phật đem giáo hóa chúng sanh, để biến các nơi khổ thành chỗ an vui, luôn ở trong hữu vi mà làm lợi lạc. Đó gọi là Bồ-tát không chấm dứt Hữu vi (Bất tận hữu vi).

Bồ-tát không trụ Vô vi là Bồ-tát không mắc kẹt trong Không. Quán sát vô thường mà chẳng chán thế gian. Quán sát Vô ngã mà luôn dạy người, dù người không thật, ta không thật. Quán lẽ Tịch diệt mà không ở trong Tịch diệt lặng lẽ. Quán vô lậu nhưng chẳng đoạn tuyệt các lậu.

Vô vi được hiểu như là chốn tịch diệt lặng lẽ, nhưng Bồ-tát với đại nguyện độ sanh lại quay về với chỗ rộn ràng sanh tử. Dù trong tâm không vướng mảy trần mà luôn cứu giúp người nghèo khổ. Biết ba cõi như mộng huyễn nhưng không làm ngơ với tiếng kêu cầu của chúng sanh. Biết các pháp hư vọng không thật nhưng luôn tu phước đức, thiền định, trí huệ. Đây là để trừ bệnh chấp Không, vì nếu quán các pháp Không rồi chẳng chịu tu tập, thì nguy hiểm hơn người chấp CÓ để sợ tội.

Tóm lại, Hữu vi là có, Vô vi là không. Bồ-tát vượt qua cả hai điều có - không, luôn hành hạnh đại bi cứu đời, đó là ý nghĩa bài kệ trong kinh Lăng Già:

Thế gian thường như mộng
Trí chẳng chấp Có - Không
khởi tâm đại bi.

Và cũng là pháp môn chẳng hết Hữu vi chẳng trụ Vô vi trong phẩm này.

Các Bồ-tát nghe Phật dạy xong, khen ngợi tán thán rồi trở về nước của mình.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15705)
Đại Chánh Tân Tu số 0018 - Hán dịch: Ðại Sư Pháp Hiền (đời Tống), Việt Dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 16398)
Giới là nguồn cội của hết thảy Thiện pháp, là nền tảng của Tam vô lậu học và mọi quả vị Giải thoát... Nguyên tác: Lý Viên Tịnh; Thích Giác Quả dịch
(Xem: 23625)
Tại Gia Bồ Tát Giới Bổn - 3 ngôn ngữ Anh, Việt, Hoa - Nhiều Tác Giả
(Xem: 17514)
Tập Tổng quan kinh Đại Bát Niết-bàn này được chúng tôi biên soạn như một phần trong công trình dịch thuật và chú giải kinh Đại Bát Niết-bàn... Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 81356)
Kinh Nhật Tụng - Kinh Tụng Hằng Ngày
(Xem: 19612)
Kinh Trường Thọ Diệt Tội Hộ Chư Đồng Tử Đà La Ni - Đời Đường, nước Kế Tân, Tam Tạng Sa môn Phật Đà Ba Ly vâng chiếu dịch, Việt dịch: Sa-môn Thích Thiện Thông.
(Xem: 20263)
Kiền Long Đại Tạng Kinh bao gồm 168 tập, chứa đựng 1669 bộ Kinh văn... Tổng hợp Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 47470)
Bấy giờ, năm trăm công tử Ly-xa, dẫn đầu bởi Bảo Tích (Ratnākāra), mỗi người mang theo một cây lọng quý, biểu hiệu quyền quý, đến vườn Xoài cúng dường Phật... Tuệ Sỹ
(Xem: 39238)
Trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 15849)
“Vũ trụ vạn hữu bản thể luận” của Định Hy là một kiến giải nhân sinh vũ trụ trên hai phương diện bản thểhiện tượng, tuy vậy không rời tính thực dụng của Phật pháp trong đời sống tu tập... Thích Đức Trí
(Xem: 23260)
Niệm Phật Vô Tướng - Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí, Nguyên tác: Tiêu Bình Thật cư sĩ, Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 19296)
Kinh Vô Lượng Nghĩa - Tam tạng pháp sư Đàm Ma Già Đà Da Xá, người Thiên-trúc, dịch từ Phạn văn ra Hán văn tại Trung-quốc, vào đời Tiêu-Tề; Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
(Xem: 15219)
Kinh Hạnh Nguyện Phổ Hiền - Tam Tạng pháp sư Bát Nhã, người nước Kế-tân, dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào đời Đường; Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
(Xem: 16827)
Bản nầy thứ tự kinh văn số 1726 được khắc vào đời nhà Minh Vạn Lịch -Trung Quốc - và đang lưu trữ tại Báo Ân Tạng thuộc chùa Jojoji - Tăng Thượng tự - Tokyo, Nhật Bản... HT Thích Như Điển
(Xem: 13098)
Có lần Đấng Thế Tôn ngụ tại vùng của bộ tộc Thích-ca (Sakka) tại thành Ca-tì-la-vệ (Kapilavatthu) trong khu vườn Ni-câu-đà (Nigrodha).
(Xem: 13162)
Đây là những điều tôi nghe Bụt nói vào một thời mà người còn lưu trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ Đà. Hôm ấy, cư sĩ Cấp Cô Độc cùng với năm trăm vị cư sĩ khác đã tìm đến nơi cư ngụ của thầy Xá Lợi Phất.
(Xem: 49046)
Trong khế kinh, Đức Phật nói. "Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật"... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 23363)
Giới luậtsinh mệnh, là sự sống của Phật tử, nhất là của hàng Tỳ kheo thừa Như lai sứ, hành Như lai sự... HT Thích Trí Thủ
(Xem: 19450)
Ba học Giới, Định, Tuệ là những nhân tố then chốt nhất của người học Phật, như chiếc đỉnh ba chân, thiếu một tất không thể đứng vững. Nhưng giới học, hay là giới luật học, lại là căn bản nhất... HT Thích Thanh Kiểm
(Xem: 17197)
Luật Học Tinh Yếu - Muốn qua sông phải nhờ thuyền bè, muốn vượt bể khổ sinh tử phải nương nhờ Giới pháp... HT Thích Phước Sơn
(Xem: 32169)
Cúi đầu lễ chư Phật, Tôn Pháp, Tỳ-kheo Tăng, Nay diễn pháp Tỳ-ni, Để Chánh pháp trường tồn... HT Thích Trí Thủ dịch
(Xem: 27498)
Luật Tứ Phần - Việt dịch: HT Thích Đổng Minh; Hiệu chính và chú thích: Thích Nguyên Chứng, Thích Đức Thắng
(Xem: 14346)
Du Già Sư Địa Luận Thích - Trước tác: Bồ Tát Tối Thắng Tử; Hán dịch: Tam-Tạng Pháp Sư Huyền Trang; Việt dịch: Thích Tâm Châu
(Xem: 14818)
Pháp Hoa Tông Yếu, Thứ tự kinh văn số 1725 trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh do Ngài Nguyên Hiểu sọan chữ Hán, Sa Môn Thích Như Điển dịch.
(Xem: 18651)
Bộ Pháp Hoa Huyền Nghĩa xuất bản hôm nay không có một liên quan nào, về mọi phương diện, với những bộ Kinh danh đề tương tựchúng ta thấy trong Đại tạng... Chánh Trí Mai Thọ Truyền
(Xem: 16448)
Tỳ Kheo Huệ Chiểu chùa Đại Vân ở Chuy Châu sọan, Sa Môn Thích Như Điển Phương Trượng chùa Viên Giác Hannover Đức Quốc dịch từ Tiếng Hán sang tiếng Việt trên chuyến Hoằng Pháp Âu Châu năm 2013
(Xem: 13944)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, thuộc Luận Tập bộ toàn. Thứ tự kinh văn số 1663 (562-563)... HT Thích Như Điển
(Xem: 17305)
Tác Giả: Tăng Triệu Ðại Sư - Lược Giải: Hám Sơn Ðại Sư; Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 19417)
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú - Do HT Thích Như Điển dịch Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh
(Xem: 28071)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử tiếp tục truyền bá giáo lý của ngài trong nhân gian. Đồng thời, để bảo đảm giáo lý của ngài một cách trung thực cho hậu thế, họ đã gom lại kết tập để soạn thành một tập toàn bộ kinh điển.
(Xem: 14420)
Toàn thể đại dụng, thu nhiếp xưa nay ngay trên đường; dứt trí tuyệt ngu, vật và ta ngang bằng nơi kiếp ngoại ... HT Thích Thiện Siêu
(Xem: 16971)
Luận về Pháp Hoa Kinh An Lạc Hạnh Nghĩa - Phiên dịch, chú giải: Daniel B. Stevenson & Hiroshi Kanno - Phiên dịch, thi hóa: Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm
(Xem: 22209)
Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ, bao gồm nghĩa lý thâm thiết để cởi mở nghiệp khổ cho chúng sanh... HT Thích Thiện Siêu dịch
(Xem: 23352)
Thiện nam tử! Có một loại pháp Bồ tát nên diệt trừ. Ðó là pháp tham. Thiện nam tử ! Ðây là một pháp phải nên diệt trừ vĩnh viễn.
(Xem: 28056)
Bộ kinh Lăng Nghiêm Tông Thông này được Ngài Thubten Osall Lama, tức Nhẫn Tế thiền sư, Đức Sơ Tổ Tây Tạng Tự, dịch và chú thích thêm từ bản Hán văn sang Việt văn...
(Xem: 64900)
Một thuở nọ Thế-tôn an-trụ Xá-vệ thành Kỳ-thụ viên trung, Mục-liên mới đặng lục-thông, Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm-luân.
(Xem: 33272)
Thế Tôn, nếu con nghĩ rằng con đắc đạo A La Hán, thì Thế Tôn chẳng nói Tu Bồ Đề là một hành giả thanh tịnh hạnh. Vì Tu Bồ Đề vốn là vô sở hành...
(Xem: 40223)
Tam thế chư Phật, chư Đại-Bồ-tát, thật chứng và nhập một với Pháp-giới-tính nên phát-khởi vô-duyên đại-từ, đồng-thể đại-bi, hiện ra vô số thân, theo duyên hóa-độ vô-lượng vô-biên chúng-sinh...
(Xem: 25164)
Luật nghi của Đức Thế Tôn chế định vì bảo hộ Tăng-già, thanh qui của Tùng Lâm đặt định để thành tựu pháp khí cho già lam, pháp thức hành trì cho cư gia phật tử để xây nền thiện pháp...
(Xem: 50284)
Khi bạn tiếp tục tiến tới trên đạo lộ một cách đúng đắn, với ý định trở thành một con người giác ngộ, bạn phải kiểm soát tâm theo đúng cách...
(Xem: 38592)
Sách này thâu kết lời giảng của đức Đalai Lama về bài kinh ngắn mang tựa đề Bát Nhã Tâm Kinh, một trong những bộ kinh Phật giáo Ðại thừa quý giá nhất.
(Xem: 27366)
Kinh Trường Bộ thi hóa (3 tập) - Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli - Chuyển thể Thơ: Giới Lạc Mai Lạc Hồng
(Xem: 28626)
Trọng tâm cứu khổ của Ngài Quán Thế Âm nhằm giải thoát sự khổ tâm, khổ tinh thần. Một khi con người đã giải thoát khổ tinh thần thì thân thể sẽ lành mạnh.
(Xem: 52282)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 35931)
Địa Tạng Bồ Tát Bản Tích Linh Cảm Lục - Liêu Nguyên dịch, Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 32941)
Kinh Kim Cương lấy vô tướng làm tông, vô trụ làm thể, diệu hữu làm dụng. Từ khi Bồ-đề Đạt-ma đến từ Tây Trúc truyền trao ý chỉ kinh này khiến người đời ngộ lý đạo, thấy tính.
(Xem: 50894)
Sự giải thoát tinh thần, theo lời dạy của Ðức Phật, được thành tựu bằng việc đoạn trừ các lậu hoặc (ô nhiễm trong tâm). Thực vậy, bậc A-la-hán thường được nói đến như bậc lậu tận...
(Xem: 74958)
Kinh chữ Hán - ĐĐ. Thích Hạnh Phú sưu tầm & biên soạn
(Xem: 36185)
Sắc là vô thường. Vô thường tức là khổ. Khổ tức là chẳng phải ta. Cái gì chẳng phải ta thì cũng chẳng phải sở hữu của ta. Quán sát như vậy gọi là chân thật chánh quán.
(Xem: 49034)
Người nhất tâm nghe kinh có hai hạng: nghe rồi thọ trì pháp và nghe rồi không thọ trì pháp. Người nghe rồi thọ trì pháp là hơn, người nghe rồi không thọ trì pháp là kém.
(Xem: 31049)
Nếu dùng hình sắc để thấy ta, Dùng âm thanh để cầu ta, Người nầy hành tà đạo, Chẳng thể thấy Như Lai... HT Thích Như Điển
(Xem: 33982)
Kinh Bại Vong (Parabhava-sutta) rút từ Tập Kinh (Suttanipata), kệ số 91-115, trang 18-20, Pali Text Society... HT Thích Thiện Châu dịch
(Xem: 28952)
Trải qua nửa thế kỷ thuyết pháp độ sinh, Ðức Ðạo sư đã hóa độ đủ mọi hạng người, không phân biệt màu da, chủng tộc, giai cấp, sang hèn... Thích Phước Sơn
(Xem: 58878)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 46303)
“Ðức Thế Tôn nghe Phạm vương ba lần ân cần thưa thỉnh, liền dùng Phật nhãn soi khắp thế giới chúng sanh, thấy sự ô nhiễm của chúng sanh có dày có mỏng...
(Xem: 43861)
Khi Đức Phật nói danh hiệu chư Phật đời quá khứ, có mười ngàn Bồ Tát, được Vô sinh nhẫn, tám trăm Thanh Văn, phát thiểu phận tâm, năm ngàn Tỷ khưu...
(Xem: 43253)
Kinh vừa là Kinh Phật, lại vừa là miệng Phật. Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã...
(Xem: 45981)
Này các Kàlàmà, chớ có tin vì nghe báo cáo, chớ có tin vì nghe truyền thuyết; chớ có tin vì theo truyền thống; chớ có tin vì được kinh điển truyền tụng...
(Xem: 48065)
Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Trọn bộ 11 tập - 600 cuốn; Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: HT Thích Trí Nghiêm
(Xem: 63788)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant