Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

1. Nghĩa Không Của Trung Luận

02 Tháng Bảy 201000:00(Xem: 7777)
1. Nghĩa Không Của Trung Luận

TRUNG QUÁN LUẬN
Đại Sư Ấn Thuận - TT. Thích Nguyên Chơn dịch Việt
Nhà xuất bản Tổng hợp Thành Phố Hồ Chí Minh 2008

Chương Một
NGHĨA KHÔNG CỦA TRUNG LUẬN

(Giảng tại chùa Tuyết ĐậuTứ Minh vào mùa Đông năm 1947)

Lời dẫn

Phật thuyế Duyên khởi không
Đồng nghĩa với trung đạo
Kính lễ đức Thích Tô
Thắng diệu thay lời này.

Hồi Tránh luận

Tất cả sự vật ở thế gian đều tồn tại trong quan hệ tương y tương duyên. Sự tồn tạisanh khởi tương y tương duyên chínhDuyên khởi. Đã là Duyên khởi thì phải chịu hạn cuộc và quyết định trong nhiều quan hệ tương liên; chịu các điều kiện liên quanquyết định hình thái và tác dụng của mình, như thế tức là vô tự tánh.

Tự tánh là tánh tự có hoặc tự thành, hoặc có tự thể tồn tại, hoặc tự thể quy định cho tự thể. Như cho rằng tất cả đều là những tồn tại trong quan hệ, là nương vào Duyên sanh khởi, điều này tương phản với nghĩa tự tánh (Kim Luật đặt biệt sẽ nêu lên cho chúng ta biết tự thành, tự hữu, tự thể tồn tại). Vì thế, hễ là pháp Duyên khởi tức vô tự tánh, vô tự tánh là không. Duyên khởi tức không là luận đề rất căn bảntrọng yếu của Đại thừa Trung Quán.

Chấp tự tánh là một lầm lẫn căn bản rất phổ biến của nhân loại; không là thoát khỏi sự lầm lẫn về tự tánh (tồn tại tự ngã) này mà trực nhận chân tướng của tất cả. Vì thế không là tất cánh không, là không tịch siêu việt hữu vô, lìa tất cả các hí luận. Ngay cả tướng của không cũng không tồn tại, đó chẳng phải là không đối đãi với bất khôngthế gian thường nhận biết. Thế thì, đã gọi là không thì trên ngôn thuyết đã rơi vào đối đãi, hoặc giả danh an lập.

“Không” lìa ngôn ngữ, siêu việt tất cả phân biệt hý luậnnội chứng tịch diệt, điều này chỉ có chứng cảnh giới tương ứng, chứ đâu có thể dùng ngôn thuyết được ? sở dĩ gọi không là vì để độ chúng sanh, bất đắc dĩ ngay nơi danh ngôn vốn có của chúng sanh mà khéo léo sử dụng, hầu quét sạch các chấp trướcđạt đến chánh giác sừng sững độc tồn.

Trí Luận cũng từng nói: “Vì độ chúng sanh mà nói tất cánh không”. Luận Sư Thanh Mục (Phạn: Pingalanetra) chú thích Trung Luận có đọan: “Không cũng lại không, nhưng vì dẫn dắt chúng sanh nên dùng ngôn thuyết”. Duyên khởi vô tự tánh mà nói tức không, cũng như ngón tay chỉ mặt trăng, phá tan các hý luận phân biệt có không mà đạt tịch diệt, vì thế không tức trung đạo.Trung đạo nương vào không mà hiển bày, không nương vào Duyên khởithành lập.Vả lại, căn cứ vào Duyên khởi vô tự tánh để rõ không, nên vô tự tánh tức là Duyên khởi, đó là kiến giải chân chính về Trung đạo Duyên khởi.Vì thế Duyên khởi, không, trung đạo, nếu nhìn từ phương tiện khéo léo của nhà Phật, tuy có ba từ ngữ khác nhau, nhưng đều nêu lên bản tánh của sự vật.

Trong Hồi Tránh luận, Ngài Long Thọ đã nói về sự đồng nhất của ba từ này rất rõ ràng. Trung Luận cũng nói: “Các pháp do duyên sanh, ta nói tức là không, cũng gọi là giả danh, cũng là nghĩa trung đạo”. (Phẩm Quán Tứ Đế).

Duyên khởi, không, trung đạo đồng nghĩa, là một nhận thức chính xác đầu tiên trong việc tin hiểu Phật pháp. Học thuyết Trung Quán trình bày nghiêm mật và sâu xa giáo lý căn bản này của Phật-đà. Ngài Long Thọ đã nắm vững về điều này, nhìn suốt thấu được sự chứng ngộ của Phật-đà, cho đến việc cốt yếu vì chúng sanh thuyết pháp. Chỉ có như thế, mới đúng là giáo thuyết rốt ráo của Phật pháp. Trong Trung Luận, ngài Long Thọ nêu ra Bát Bất, là thuyết Duyên khởi tức không, tức trung. Đó chính là :

“Chẳng sanh cũng chẳng diệt,
Chẳng thường cũng chẳng đoạn,
Chẳng một cũng chẳng khác,
Chẳng đến cũng chẳng đi.
Con cúi đầu lễ Phật,
Tối thắng trong thế gian ?
Khéo nói pháp nhân duyên,
Hay diệt các hý luận.
(Phẩm Quán Nhân Duyên).

Căn cứ theo Duyên khởi bát Bất, có thể diệt trừ được tất cả các hí luận thế giantrở về nơi tịch diệt, đó chính là tâm yếu cùng tột của Phật pháp. Còn sở dĩ nói: “Con cúi đầu lễ Phật, tối thắng trong thế gian?” là Luận giả muốn tỏ bày lòng cung kính tán ngưỡng Phật-đà.

Học thuyết của Long Thọ, đương nhiên là xiểng dương tất cả đều không, những luận điển của Ngài đều dùng Trung Luận, một tác phẩm đại biểu của Ngài để thuyết minh. Vì thế ta chẳng gọi đó là không mà gọi là trung. Như vậy có thể biết được ngài Long Thọ đề xướng Duyên khởi, không, trung đạo đồng nhất, lại lấy trung đạo lìa nhị biên làm tông yếu. Trong Trung Luận, mỗi phẩm đều gọi là Quán. Như phẩm Quán nhân duyên cho đến phẩm Quán Tà Kiến….Quán tức quán xét, quán xét một cách chính xác Duyên khởi, không, trung đạo. Từ quán xét luận chứng mà đạt đến hiện quán thể chứng. Vì thế đời sau đều gọi học thuyết của ngài Long Thọphái Trung Quán, hoặc tông Trung Quán, các nhà Trung Quán thì gọi là Trung Quán Sư.

Học thuyết Trung Quán của Ngài Long Thọ được pháp Sư Cưu-ma-la-thập truyền đến Trung Quốc vào đầu thế kỷ VI. Các phái Phật giáo vốn có từ trước ở Trung Quốc và những trào lưu tư tưởng thích ứng thời gian quốc độ, thì từ dòng Trường Giang về Nam, cả hai có một sự hoằng dương tương đối bằng nhau. Trong đó tông Tam Luận được xem chánh thống của Trung Quán. Ngoài ra, tông Thiên Thai cũng y cứ vào yếu nghĩa Duyên khởi tức không, tức giả, tức trung mà phát huy và xiểng dương Viên tông độc đáo của mình. Trung Quán hệ Long Thọ đã ảnh hưởng rất sâu sắc và rộng rãi trong giới Phật giáo Trung Quốc, khiến cho những học giả Phật giáo khác phải sùng kính hoặc nương theo tu tập. Do đó, khi truyền vào Nhật Bản thì có truyền thuyết của ngài Long Thọ là tổ của tám tông (Bát tông cộng tổ).

Tại Tây Tạng, vào khoảng năm 800, Trung Quán cũng được các học giả Ấn Độ truyền đến. Theo truyền thuyết thì ngài Phật Hộ, Nguyệt Xứng của phái Ứng Thành và ngài Tĩnh Mạng, Thanh Biện của phái Tự Tục của Ấn Độ đã truyền vào. Khi truyền vào, tuy mỗi mỗi đều có nhân duyên khác nhau, nhưng qua sự hoằng dương thì phái Ứng Thành đã chiếm ưu thếtrở thành hệ chánh thống của Trung Quán. Còn về kinh điển Trung Quán thuộc Tạng truyền thì gần đây mới phiên dịch được một phần sang Hán văn. Đồng thời do Trung Luận bản Phạn mới được phát hiện, qua sự khảo chứng văn nghĩa của các học giả người Nhật, mà có thêm nhiều lý giải mới mẻ.

Đặc chất của Trung Quán, nếu trong tương lai được sự đối chiếu, khảo chứng từ các bản Tạng truyền, Hán truyền và Phạn truyền ắt sẽ có những phát hiện chính xác và đầy đủ hơn.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15036)
Đại chánh tân tu số 0070, Hán dịch: Thích Pháp Cự, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13479)
Đại chánh tân tu số 0068, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 15169)
Đại chánh tân tu số 0069, Hán dịch: Pháp Hiền, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 16537)
Luận Du Già Sư Địa (Phạn: Yogacàrabhùmi – sàtra), tác giảBồ tát Di Lặc (Maitreya) thuyết giảng, Đại sĩ Vô Trước (Asànga) ghi chép, Hán dịch là Pháp sư Huyền Tráng (602 -664)... Nguyên Hiền
(Xem: 13245)
Đại chánh tân tu số 0067, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12608)
Đại chánh tân tu số 0066, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13500)
Đại chánh tân tu số 0065, Hán dịch: Thích Pháp Cự, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13453)
Đại chánh tân tu số 0064, Hán dịch: Thích Pháp Cự, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12793)
Đại chánh tân tu số 0063, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 12087)
Đại chánh tân tu số 0063, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12009)
Đại chánh tân tu số 0062, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12688)
Đại chánh tân tu số 0061, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11512)
Đại chánh tân tu số 0060, Hán dịch: Huệ Giản; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11816)
Đại chánh tân tu số 0059, Hán dịch: Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11186)
Đại chánh tân tu số 0058, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13316)
Đại chánh tân tu số 0057, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13192)
Đại chánh tân tu số 0056, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11618)
Đại chánh tân tu số 0055, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12197)
Đại chánh tân tu số 0054, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12372)
Đại chánh tân tu số 0052, Hán dịch: Thí Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11985)
Đại chánh tân tu số 0051, Hán dịch: Khuyết Danh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12764)
Đại chánh tân tu số 0050, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12400)
Đại chánh tân tu số 0048, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12225)
Đại chánh tân tu số 0047, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12300)
Đại chánh tân tu số 0046, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12035)
Đại chánh tân tu số 0045, Hán dịch: Pháp Hiền, Thí Quang Lộc Khanh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11961)
Đại chánh tân tu số 0044, Hán dịch: Khuyết Danh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11251)
Đại chánh tân tu số 0043, Hán dịch: Huệ Giản; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11395)
Đại chánh tân tu số 0042, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12392)
Đại chánh tân tu số 0041, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12486)
Đại chánh tân tu số 0040, Hán dịch: Ðàm Vô Sấm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12018)
Đại chánh tân tu số 0039, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12982)
Đại chánh tân tu số 0038, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12059)
Đại chánh tân tu số 0037, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12622)
Đại chánh tân tu số 0036, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13039)
Đại chánh tân tu số 0035, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13966)
Đại chánh tân tu số 0034, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12763)
Đại chánh tân tu số 0033, Hán dịch: Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14883)
Đại chánh tân tu số 0032, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11938)
Đại chánh tân tu số 0031, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12196)
Đại chánh tân tu số 0030, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12893)
Đại chánh tân tu số 0029, Hán dịch khuyết danh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12781)
Đại chánh tân tu số 0028, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14800)
Đại chánh tân tu số 0027, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12782)
Đại chánh tân tu số 0022, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 15413)
Đại chánh tân tu số 0021, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12604)
Đại chánh tân tu số 0020, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13239)
Đại chánh tân tu số 0018, Hán dịch: Pháp Thiên; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14269)
Đại chánh tân tu số 0017, Hán dịch: Chi Pháp Ðộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 15573)
Đại chánh tân tu số 0016, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13758)
Đại chánh tân tu số 0015, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13150)
Đại chánh tân tu số 0014, Hán dịch: Sa Môn An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc và Tâm Hạnh
(Xem: 13589)
Kinh Bát Nê Hoàn (Đại Chánh Tân Tu số 0006) - Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12507)
Kinh Phật Bát Nê Hoàn (Đại Chánh Tân Tu số 0005) - Bạch Pháp Tổ; Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12096)
Kinh Thất Phật Phụ Mẫu Tánh Tự (Đại Chánh Tân Tu số 0004) - Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12921)
Kinh Phật Tỳ Bà Thi (Đại Chánh Tân Tu số 0003) Hán Dịch: Tống Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Tâm Hạnh
(Xem: 13016)
Kinh Thất Phật (Đại Chánh Tân Tu số 0002) Hán Dịch: Tống Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Tâm Hạnh
(Xem: 13251)
Đức Phật dạy: Ai muốn tin Ta, làm đệ tử Ta, cần phải đủ trí quán sát, mới tin; không rõ nguyên nhân Ta, mà tin Ta ấy là phỉ báng Ta... HT Thích Hành Trụ dịch
(Xem: 21348)
Thiện Ác Nghiệp Báo (Chư Kinh Yếu Tập) Đại Chánh Tân Tu số 2123 - Nguyên tác: Đạo Thế; Thích Nguyên Chơn dịch
(Xem: 143713)
Đại Tạng Việt Nam bao gồm 2372 bộ Kinh, Luật và Luận chữ Hán và tất cả đã kèm Phiên âm Hán Việt...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant