Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 2 Chỉ Cách Từ Sinh Diệt Hội Nhập Chân Như

09 Tháng Bảy 201000:00(Xem: 6459)
Phần 2 Chỉ Cách Từ Sinh Diệt Hội Nhập Chân Như

LUẬN KHỞI TÍN
HT. Thích Trí Quang dịch giải

Phần 2 
Chỉ Cách Từ Sinh Diệt Hội Nhập Chân Như

Chính Văn.-

Bây giờ chỉ cái cách từ mặt sinh diệt mà hội nhập ngay vào mặt chân như. Cách ấy là cứu xét vật với tâm nơi cái thân năm hợp thể (125) này, cùng với sáu đối cảnh trong vật với tâm ấy, tất cả đều siêu việt phân biệt. Phân biệt mà cứu xét đến cùng thì cũng không có gì có thể thủ đắc. Kẻ lầm đường thì lầm đông là tây, trong khi đông và tây không đổi theo cái lầm ấy; chúng sinh cũng vậy, vì bất giác mà cho tâm thể là phân biệt, nhưng sự thật tâm thể không thác loạn theo phân biệt ấy. Do vậy, nếu biết chiêm nghiệm tâm thể siêu việt phân biệt thì thế là thích ứng mà hội nhập chân như.

Lược Giải.-

Đến đây nên nói vói lại chữ niệm của Khởi tín luận. Chữ ấy tôi đã nói ngài Huyền tráng dịch là phân biệt, và phân biệt có thể hiểu là khái niệm là vì khái niệm là pháp. Từ điển bình thường thì khái niệm là tổng hợp sự tương đồng của quan niệm. Pháp là như thế mà còn hơn thế nữa. Gọi là 1 pháp có nghĩa là 1 cái biết: biết đây là cây bút, lại biết đây là cây bút tốt, đây là cây bút cũ, v/v - chỉ nơi 1 cây bút mà đã có bao nhiêu là biết. Mỗi cái biết như vậy là 1 pháp, thực chất không đơn thuần mà là 1 khái niệm: biểu thị sự tổng hợp không những mọi dữ kiện mà còn mọi đối chiếu và nhất là mọi kinh nghiệm.

Nhưng xét chữ niệm của Khởi tín luận nói, có khi nói là động, thì biết không những niệm là phân biệt mà là, nói cho cùng, hễ tâm động thì là niệm đó. Do vậy, biết tâm bất động là biết tâm ly niệm, tập ly niệm thì đương xứ giải thoát, nơi sinh diệt mà nhập chân như.

Trong hạ thủ công phu, sự ly niệm có thể bắt đầu bằng sự vô tâm của ngài Huệ năng: không thị phi bỉ thử gì hết; bằng sự niệm Phật: nhất tâm với 1 hồng danh mà thôi; bằng sự tham cứu công án của Thiền tông: tỉnh như mèo rình chuột chứ không nghĩ gì khác; bằng sự hành trì thần chú Bát nhã: vượt qua, vượt qua, vượt qua bên kia; bằng sự trực tâm chánh niệm chân như của luận này.

Sửa Chữa Những Ngộ Nhận Liên Quan Nhân Ngã

Chính Văn.-

Sửa chữa nhận thức sai lầm về Tâm là phải biết mọi nhận thức sai lầm đều do khái niệm về ngã; tách rời khái niệm về ngã thì không còn nhận thức nào bị sai lầm nữa. Khái niệm về ngã có hai, một là nhân ngã, hai là pháp ngã (126) .

Nhân ngã là của người thường, có năm sự.

Một là nghe khế kinh nói pháp thân Như lai tuyệt đối vắng bặt, tựa như hư không. Không biết lời này chỉ để đả phá cố chấp, nên ngộ nhận sự trống không là thực chất của đức Như lai. Sửa chữa cách nào? Hãy nói rõ sự trống không là giả, không thật. Không là đối với vật mà có, mà thấy, và nhận thức phân biệt rằng đó là không. Như vậy thì vật cũng do nhận thức phân biệt, không phải độc lập ngoài nhận thức. Vật đã không thì không cũng không. Thế nên mọi đối tượng của nhận thức chỉ do nhận thức hình thành, rời nhận thức thì mọi đối tượng đều không, chỉ còn tâm thể chân như phổ biến tất cả: đó là cái nghĩa tuyệt đối của tuệ giác Như lai (127) , chứ không phải trống không như hư không.

Hai là nghe khế kinh nói vũ trụ vạn hữu hoàn toàn là không, đến nỗi niết bàn với chân như cũng hoàn toàn là không, thực chất tự không, không có dưới mọi dạng thức (128) . Không biết lời này chỉ để đả phá cố chấp, nên ngôể nhận niết bàn chân như thực chất cũng không. Sửa chữa cách nào? Hãy nói rõ cái nghĩa Có một cách đúng như sự thật của chân như, rằng chân như sung mãn vô lượng tánh đức.

Ba là nghe khế kinh nói Như lai tạng sung mãn hết thảy tánh đức, không hề thêm bớt. Không lý giải lời này nên ngộ nhận Như lai tạng có những đặc tính dị biệt của vật với tâm. Sửa chữa cách nào? Hãy nói rõ khế kinh nói như vậy là căn cứ mặt chân như, còn những đặc tính dị biệt chỉ là nói theo mặt sinh diệt.

Bốn là nghe khế kinh nói toàn bộ nhiễm pháp đều do Như lai tạng mà có, hết thảy nhiễm pháp tịnh pháp không ngoài chân như. Không lý giải lời này nên ngộ nhận Như lai tạng bản thân sung mãn toàn bộ nhiễm pháp. Sửa chữa cách nào? Hãy nói rõ Như lai tạng vô thỉ đến giờ chỉ có nhiều hơn hằng sa những tánh đức trong sáng, những tánh đức không độc lậpđối lập với chân như, và do vậy mà không bao giờ mất hẳn; còn những phiền não ô nhiễm nhiều hơn hằng sa thì chỉ có một cách thác loạn, thực chất tự không, vô thỉ đến giờ không hề thích hợp với Như lai tạng. Như lai tạng nếu bản thânnhiễm pháp mà làm cho nhiễm pháp hủy diệt để hội nhập với Nó thì vô lý.

Năm là nghe khế kinh nói do Như lai tạng mà có sinh tử, do Như lai tạng mà được niết bàn. Không lý giải lời này nên ngộ nhận rằng thế là chúng sinh hữu thỉ, chúng sinh hữu thỉ thì Như lai niết bàn, niết bàn ấy cũng hữu chung, và Như lai sẽ trở lại làm chúng sinh. Sửa chữa cách nào? Hãy nói rõ Như lai tạng là vô thỉ, bất giác do đó cũng vô thỉ (nói ngoài chúng sinh có một kẻ cũng mới có và có trước, thì đó là kinh sách ngoại đạo nói) (129) ; Như lai tạng cũng vô chung, niết bàn của Như lai thích ứng với Như lai tạng nên cũng vô chung.

Lược Giải.-

Coi lược giải đoạn dưới đây.

Sửa Chữa Những Ngộ Nhận Liên Quan Pháp Ngã

Chính Văn.-

Pháp ngã là của nhị thừa. Vì trình độ kém cỏi của họ mà đức Như lai chỉ nói cho họ đạo lý nhân vô ngã. Ngài dạy chưa trọn vẹn, nên nhị thừa thấy có năm hợp thể, thấy có sự phát sinh và có sự hủy diệt của năm hợp thể ấy. Thấy có như vậy nên nhị thừa sợ sự sống chết mà thích sự niết bàn. Sửa chữa cách nào? Hãy nói rõ năm hợp thể đương sinh bất sinh, đương diệt bất diệt (130) , bản lai niết bàn (131) .

Lược Giải.-

Cả 2 đoạn, e1 ở trên và e2 ở đây, nêu lên lắm vấn đề, không những giữa Phật giáo với ngoại đạo mà còn giữa Phật giáo với Phật giáo. Hãy cứu xét ky? ở đây và ở những nơi liên quan khác. Bởi vì nếu không thì nói ngũ uẩn vô ngã mà có thể là nói duy vật, nói niết bàn mà có thể là nói đoạn kiến, nói vô thỉ vô chung mà có thể là nói Phạn thiên với Thần ngã.

Sửa Chữa Triệt Để Mọi Sự Ngộ Nhận

Chính Văn.-

Sửa chữa triệt để mọi sự nhận thức sai lầm về Tâm là hãy nhận thức nhiễm pháp với tịnh pháp toàn là đối chiếu với nhau mà hình thành, không có đặc tính biệt lập gì có thể chỉ ra. Thế nên các pháp bản lai phi vật lý, phi tâm lý, phi tuệ giác, phi nhận thức, phi khẳng định, phi phủ định, chung cục không thể diễn tả. Diễn tả là do sự khéo léo của đức Như lai mượn ngôn ngữ để hướng dẫn chúng sinh. Ý hướng của ngài là làm cho chúng sinh vượt khỏi phân biệt, qui về chân như. Bởi vì chính phân biệt làm cho phân biệt mà không hội nhập tuệ giác chính xác.

Nói Tổng Quát Về Sự Phát Tâm

Chính Văn.-

Phân tích sắc thái phát huy về Tâm thì Tâm là cái mà tuệ giác của các đức Phật đà đã chứng ngộ, và tuệ giác ấy hết thảy các vị Bồ tát phát tâm (132) mà đi mau đến. Nói đại khái thì phát tâm có ba: một là phát tâm bằng sự tin (133) , hai là phát tâm bằng sự biết và sự làm, ba là phát tâm bằng sự chứng (134) .

Lược Giải.-

Nói tổng quát về sự phát tâm như chính văn trên đây cũng đủ thấy chữ phát tâm đồng nghĩa với chữ tu hành mà còn hơn nữa: phát tâm là cơ sở, mục đích, tiến trình và cứu cánh của sự tu hành ấy.

Nói Tư CáchLý Do Phát Tâm 
Của Người Được Đứng Vào Chánh Định Tụ

Chính Văn.-

Phát tâm bằng sự tin là do người nào, tu việc gì, để được sự tin hoàn hảophát tâm được? Là do những người thuộc bất định tụ (135) . Những người này nhờ sức mạnh của sự huân tập thiện căn (136) mà tin nghiệp và hậu quả của nghiệp (137) , tu mười điều thiện, chán thống khổ sinh tử, cầu tuệ giác vô thượng. Do vậy mà được gặp các đức Phật đà, đích thân phụng sự hiến cúng, và tu hành sự tin. Qua mười ngàn thời kỳ (138) thì sự tin hoàn hảo, nên các đức Phật đà hay các vị Bồ tát dạy cho phát tâm, hoặc vì lòng đại bi thương xót chúng sinh mà tự phát tâm, hoặc vì duy trì Phật pháp sắp mất mà tự phát tâm. Những người do sự tin hoàn hảophát tâm như vậy thì được đứng vào chánh định tụ (135) , tuyệt đối không còn thoái lui, và được gọi là người ở trong dòng giống Như lai, thích ứng với nhân tố chính yếu.

Lược Giải.-

Đây là nói về tư cáchlý do phát tâm của người được vào chánh định tụ. Trọn phần nói phát tâm bằng sự tin này (và tiếp theo là bằng sự hiểu và làm, bằng sự chứng) là nói cho những người này.

Nói Tư CáchLý Do Phát Tâm Của Người 
Chưa Đứng Vào Chánh Định Tụ

Chính Văn.-

Có những người thiện căn kém cỏi, phiền não lâu ngày sâu dày, thì dẫu được gặp Phật và được hiến cúng, nhưng gây hạt giống nhân thiên (139) , hay gây hạt giống nhị thừa, có cầu đại thừa đi nữa thì trình độ cũng không cố định, hoặc tiến tới hoặc thoái lui. Hoặc có những người cũng được gặp Phật và được hiến cúng, nhưng chưa qua mười ngàn thời kỳ, trong thì gian ấy gặp duyên tố thì cũng phát tâm, như thấy sắc tướng của Phật mà phát tâm, như hiến cúng Tăng mà phát tâm, như các vị nhị thừa dạy cho (140) mà phát tâm, như học tập người khác mà phát tâm, đại loại như vậy, những sự phát tâm này đều không cố định, gặp phải nhân tố hay duyên tố bất thiện (141) thì có người thoái chuyển, sa vào địa hạt nhị thừa.

Lược Giải.-

Đây là nói về tư cáchlý do phát tâm của người chưa đứng vào chánh định tụ. Sau đây, trọn c4 phần cách tu là nói cho những người này.

Nói 3 Tâm Được Phát (Và 4 Phương Tiện Được Tu)

Chính Văn.-

Phát tâm bằng sự tin hoàn hảo là phát những tâm gì? Ước lược mà nói thì có ba. Một là tâm ngay thẳng (142) , là chính xác nhớ thẳng tâm thể chân như. Hai là tâm sâu xa, là thích thú tập hợp mọi thiện hạnh. Ba là tâm đại bi, là muốn cứu vớt thống khổ cho chúng sinh.

Hỏi, trên kia đã nói, chân nhưpháp tánh đồng nhất, là thật thể bất nhị, như vậy tại sao không chỉ nghĩ nhớ chân như mà còn cần phải tu học thiện hạnh? Đáp, khối ngọc đại ma ni thể chất trong suốt mà có quặng làm bẩn, chỉ nghĩ đến thể chất của ngọc ấy mà không tìm cách mài dũa thì không bao giờ trong suốt. Chân như cũng vậy, thực thể trong sáng nhưng có vô số phiền não làm bẩn, nếu chỉ nhớ chân như mà không tu phương tiện thì chân như ấy không thể trong sáng. Phiền não làm bẩn tất cả các pháp thì phải tu tất cả thiện hạnhđối trị. Tu thiện hạnh là quay lại thuận theo chân như.

Phương tiện nói trên ước lược có bốn. Một là phương tiện căn bản, là quán sát các pháp đương sinh bất sinh, nên siêu thoát nhận thức thác loạn chứ không trú ở (143) sinh tử; quán sát các pháp hội đủ yếu tố thì nghiệp và hậu quả của nghiệp không mất, nên sinh tâm đại bi mà làm mọi phước đức để hóa độ chúng sinh chứ không trú ở (143) niết bàn. Tu phương tiện này là vì thuận theo sự không trú ở đâu cả của chân như. Hai là phương tiện đình chỉ, là hổ thẹnsám hối tội lỗi, đình chỉ việc ác không cho lớn thêm. Tu phương tiện này là vì thuận theo sự tách rời tội ác của chân như. Ba là phương tiện phát sinh và nuôi lớn thiện căn, là tinh tiến hiến cúng và lễ bái Phật pháp tăng, tán dương, tùy hỷkhuyến thỉnh Phật đà. Do cái tâm kính mến Tam bảo thuần hậu như vậy mà sự tin lớn thêm, chí cầu tuệ giác vô thượng, lại nhờ Phật pháp tăng lực hộ trì cho mà nghiệp chướng tiêu diệt, thiện căn phát triển. Tu phương tiện này là vì thuận theo sự thoát ly si mê chướng ngại của chân như. Bốn là phương tiện đại nguyện bình đẳng, là nguyện cùng tận vị lai hóa độ chúng sinh, không để thiếu sót, làm cho ai cũng rốt cuộc thực hiện niết bàn hoàn toàn (144) . Tu phương tiện này là vì thuận theo sự không gián đoạn của chân như, sự phổ biến chúng sinh, sự bất phân bỉ thử (145) và sự vắng lặng tuyệt đối (146) của chân như.

Lược Giải.-

Lối trình bày những phương tiện (thiện hạnh) như ở đây tức là thuận tánh khởi tu. Hãy chú ý những phương tiện này. Vì như phương tiện một là đủ cả chân quán tục quán, phương tiện ba là làm 10 đại nguyện vương đó.

Riêng ví dụ chỉ nghĩ chất ngọc mà không lo mài ngọc là thuốc đắng dành cho những người cho rằng chỉ nghĩ chân như là cao nhất rồi.

Nói Thành Quả Của Sự Phát Tâm Ấy

Chính Văn.-

Các vị Bồ tát phát tâm bằng sự tin hoàn hảo như vậy thì thấy được ít phần của pháp thân; vì thấy được pháp thân nên các vị ấy đã có thể tùy sức mạnh của đại nguyện mà biểu hiện trong thế giới loài người bằng tám hình thức để lợi ích chúng sinh, đó là giáng thần, vào thai, ở thai, ra thai, xuất gia, thành đạo, chuyển pháp luân, nhập niết bàn (147) . Nhưng các vị Bồ tát này vẫn chưa được gọi là hội nhập pháp thân, vì các vị ấy chưa loại hết những hành vi sai sót (148) có trong nhiều đời đã qua, nên sinh ra ở đâu cũng còn có cái khổ nhỏ nhiệm - dầu vậy, các vị ấy có sức mạnh tự tại của đại nguyện nên không phải là kẻ bị nghiệp ràng buộc. Trong kinh có chỗ nói các vị ấy còn bị thoái lui và sa vào nẻo đường dữ, nhưng thật ra các vị ấy không còn thoái lui; trong kinh nói như vậy là để cảnh cáo những vị Bồ tát mới tu học, chưa vào chánh định tụ mà lại biếng nhác, cho họ dũng mãnh hơn lên. Thêm nữa, các vị ấy một khi phát tâm rồi thì hết hẳn khiếp nhược, hoàn toàn không còn e sợ sa vào các nẻo đường dữ (149) ; các vị ấy cũng không còn e sợ gì khi nghe nói phải trải qua vô số thời kỳ vô số (150) , siêng khó làm những việc khó làm mới được niết bàn, vì các vị ấy tin tưởng và xác quyết rằng các pháp bản lai vốn tự niết bàn.

Lược Giải.-

Bồ tát phát tâm bằng sự tin hoàn hảo thì có 4 thành quả, tả bằng 4 đoạn trong chính văn: biểu hiện 8 hình thức, ở đâu cũng tự tại, không còn bị thoái chuyển, không còn khiếp sợ gì.

Nói Sự Phát Tâm Bằng Sự Biết Và Sự Làm

Chính Văn.-

Phát tâm bằng sự biết và sự làm thì phải biết là hơn nữa. Bởi vì từ khi đạt được sự tin hoàn hảo sắp đi, cho đến lúc thời kỳ vô số thứ nhất sắp đầy đủ (151) , các vị Bồ tát này đối với chân như đã có sự hiểu sâu xa và sự làm ly tướng: các vị biết chân như là không tham lẫn nên thuận theo mà làm thí độ, biết chân như là không ô nhiễm nên thuận theo mà làm giới độ, biết chân như là không tức giận nên thuận theo mà làm nhẫn độ, biết chân như là không biếng nhác nên thuận theo mà làm tiến độ, biết chân như là không rối loạn nên thuận theo mà làm định độ, biết chân như là không bất giác nên thuận theo mà làm trí độ (152) .

Lược Giải.-

Biết và làm ở đây là thuận tánh khởi dụng.

Nói Sự Phát Tâm Bằng Sự Chứng 
(Và Hoạt Dụng Của Sự Phát Tâm Ấy)

Chính Văn.-

Phát tâm bằng sự chứng là các vị Bồ tát từ địa vị tuệ giác trong sáng đến địa vị cùng tận địa vị (153) . Các vị này chứng đối cảnh gì? Chứng chân như. Nhưng nói đối cảnh là nói như chuyển thức cho dễ hiểu (154) , chứ sự chứng ở đây không có cái gọi là đối cảnh. Ở đây là tuệ giác chân như, gọi là pháp thân (155) .

Các vị Bồ tát này có thể trong một khoảnh khắc mau như một ý nghĩ thoạt hiện hay thoạt biến, đến các quốc độ, hiến cúng các đức Phật đà, thỉnh cầu các ngài chuyển đẩy bánh xe Phật pháp - thỉnh cầu như vậy là để mở mắt dẫn đường cho chúng sinh, chứ không phải cần đến ngôn ngữ văn tự (156) . Các vị Bồ tát này có khi vì những kẻ khiếp sợ hèn nhát nên biểu hiện vượt mọi địa vị mà thành liền một đấng Chánh giác, có khi vì những kẻ biếng nhác khinh thường nên biểu hiện trải qua vô số thời kỳ vô số mới thành một bậc Toàn giác. Các vị biểu hiện vô số phương cách như vậy, ngoài tầm nghĩ bàn. Nhưng thực ra các vị Bồ tát thì chủng tánhthiện căn đồng đẳng nên phát tâm cũng đồng đẳng, chứng ngộ cũng đồng đẳng, không có cái sự vượt mọi địa vị, chỉ có cái sự vị nào cũng trải qua ba thời kỳ vô số (157) . Chỉ vì tùy theo thế giới bất đồng của chúng sinh, tùy theo chúng sinh trong các thế giới ấy quan năng, trình độ, khuynh hướng và cá tính khác nhau, nên các vị Bồ tát này biểu hiện việc làm cũng khác nhau.

Lược Giải.-

Coi lược giải của đoạn dưới đoạn này.

Nói Sự Hoàn Tất Của Sự Phát Tâm 
Bằng Sự Chứng (Tức Là Sự Phát Huy Tâm Hoàn Toàn)

Chính Văn.-

Sắc thái phát tâm bằng sự chứng của các vị Bồ tát này có ba thứ rất tinh tế. Một là tâm chân thật, là siêu việt sự phân biệt. Hai là tâm phương tiện, là nhiệm vận khắp làm lợi ích cho chúng sinh. Ba là tâm động thức, là còn sự sinh diệt nhỏ nhiệm.

Các vị Bồ tát này khi công đức viên thành thì, tại Sắc cứu cánh thiên, biểu hiện cái thân cao cả nhất thế gian (158) , với tuệ giác thích ứng tối hậu với chân như nên hết sạch bất giác, thực hiện tuệ giác Biết tất cả, nhiệm vận có đủ hoạt dụng siêu việt, biểu hiện khắp cả mà lợi ích chúng sinh.

Hỏi, không gian vô biên nên thế giới vô biên, thế giới vô biên nên chúng sinh vô biên, chúng sinh vô biên nên tâm thức vô biên. Đối cảnh như vậy không có giới hạn, khó mà hiểu biết. Nếu bất giác bị hủy diệt thì không còn tâm thức, làm sao hiểu biết được mà gọi là tuệ giác Biết tất cả? Đáp, tất cả đối cảnh vốn là tâm thể phổ biến, siêu việt phân biệt. Chúng sinhnhận thức không chính xác mà hình thành đối cảnh, nên nhận thức của chúng sinhphân biệt, cục bộ, với những khái niệm nổi lên càng không chính xác, không xứng đáng với thực thể các pháp nên không thể biết rõ tất cả. Phật đà siêu việt cái nhận thức như vậy, tuệ giác xác thực của các ngài chính là tâm thể phổ biến, nên chứng ngộ bản tính đồng nhất của các pháp và soi rõ đặc tính dị biệt của các pháp (159) . Tuệ giác như vậy có cái hoạt dụng vĩ đại (160) , đó là vô số phương cách, tùy chúng sinh cần thiết thế nào mới được lý giải thì chỉ dạy được cả mọi loại pháp nghĩa. Tuệ giác ấy được gọi là Biết tất cả (161) .

Lại hỏi nữa, Phật đà nếu có hoạt dụng nhiệm vận (163) , biểu hiện khắp cả mà lợi ích chúng sinh, thì lẽ đáng chúng sinh thấy được thân hình của ngài, nhìn được biến hóa của ngài, nghe được lời tiếng của ngài, và ai cũng được lợi ích cả, tại sao chúng sinh phần nhiều không ai thấy nghe gì hết? Đáp, pháp thân của Phật đàbình đẳng, phổ biến, không cần tác ý (162) , nên nói là nhiệm vận (163) . Nhưng sự biểu hiện của pháp thân ấy là do tâm thức của chúng sinh. Tâm thức chúng sinh như gương: gương mà bẩn thì bóng không hiện -- pháp thân Phật đà không hiện là vì tâm thức chúng sinh còn bẩn.

Lược Giải.-

Chứng phát tâm là xứng tánh diệu dụng.

Nói Tư Cách Người Tu Sự Tin

Chính Văn.-

Nói phần giải thích rồi, bây giờ nói phần cách tu (164) . Phần này nói sự tin và sự tu cho những người chưa đứng vào chánh định tụ (165) .

Lược Giải.-

Cách tu để có sự tin hoàn hảo mà được dành 1 phần để nói đến, cho thấy tính cách căn bản và quan trọng của sự tin và cách tu sự tin ấy.

Nói Tổng Quát Về Sự Tin, 
Và Sự Tu Của Sự Tin Ấy, Mà Người Ấy Phải Tu

Chính Văn.-

Những người này phải tin những gì và tu những gì? Tóm tắt mà nói thì sự tin ấy có bốn và sự tu ấy có năm (để làm thành sự tin ấy).

Bốn sự tin thì một là tin căn bản, là thích thú nghĩ nhớ tâm thể chân như. Hai là tin Phật, rằng ngài có công đức siêu việt (166) , nên mình luôn luôn nghĩ đến sự thân gần, hiến cúng và tôn kính để phát sinh thiện căn, mong được tuệ giác hoàn hảo của ngài (167) . Ba là tin Pháp, rằng pháp ấy có lợi ích vĩ đại, nên mình luôn luôn nghĩ đến sự làm theo các pháp ba la mật (168) . Bốn là tin Tăng, rằng các vị ấy tu hành chính xác để tự lợi lợi tha, nên mình luôn luôn thích thú thân gần Bồ tát tăng (169) để cầu học sự tu hành đúng như sự thật.

Năm sự tu (để làm thành sự tin) thì một là thí (170) , hai là giới (171) , ba là nhẫn (172) , bốn là tiến (173) , năm là chỉ và quán (174) .

Lược Giải.-

Về 4 sự tin thì vẫn là 4 bất hoại tín, nhưng thay vì thứ tư là tín giới thì ở đây thứ nhất tin căn bản chân như. Về 5 sự tu thì là bước trước của 6 độ.

Nói Về Thí

Chính Văn.-

Tu sự thí như thế nào? Nếu thấy ai đến cầu gì, thì mình có tiền của gì hãy tùy khả năngcung cấp, để tự bỏ tính tham lẫn cho mình và làm cho người ấy vui vẻ. Nếu thấy ai bị tai nạn, lo sợ và nguy khốn, thì hãy tùy khả năng của mình mà đem lại cho họ sự không sợ hãi. Nếu thấy ai đến cầu Phật pháp thì hãy tùy khả năng của mình mà khéo léo trình bày cho họ. Làm ba sự cho như vậy (175) mà không ham danh vọng, quyền lợitôn kính, không ham quả báo trong phạm vi thế gian (176) , chỉ nghĩ đến sự tự lợi lợi thahồi hướng tuệ giác vô thượng.

Lược Giải.-

Thí ở đây cũng đủ cả 3 việc, là tài thí, vô úy thípháp thí. Nhưng trong tài thí chỉ nói ngoại tài (cho cái của ở ngoài thân thể) mà chưa nói nội tài (cho cái của ở trong thân thể: cho sức lực, trí tuệ, tính mạng).

Nói Về Giới

Chính Văn.-

Tu sự giới như thế nào? Đừng sát sinh, trộm cướp và dâm dục, đừng nói hai lưỡi, nói thô ác, nói dối trá và nói thêu dệt, đừng tham lam (gồm cả ganh ghét, lừa đảo, dối trá, dua nịnh), giận dữtà kiến (177) . Nếu là người xuất gia thì vì bẻ gãy phiền não, còn phải tránh nơi náo động, ở chỗ thanh vắng; phải thực tập sự ít ham muốn, sự biết vừa đủ (178) , pháp hạnh đầu đà; lỗi nhỏ đi nữa cũng phải sợ hãi, hổ thẹn, ăn năn, đổi bỏ; phải tôn kính giới pháp của đức Như lai qui định, phải giữ gìn để tránh sự phỉ báng, ác cảm, nghĩa là đừng làm cho mọi người phát sinh tội lỗi một cách vô lối.

Lược Giải.-

Giới ở đây cũng đủ cả 3 loại là nhiếp luật nghi, nhiếp thiện pháp và nhiếp hữu tình. Nhưng người xuất gia thì căn bản của giới luật chính là thiểu dụctri túc.

Nói Về Nhẫn

Chính Văn.-

Tu sự nhẫn như thế nào? Phải ẩn nhẫn mọi sự quấy rối của kẻ khác, lòng không ấp ủ ý niệm trả đũa. Phải chịu đựng những điều sau đây: được sự vừa ý hay mất sự vừa ý, công kích trước mặt hay ca tụng trước mặt, tán dương sau lưng hay chỉ trích sau lưng, khốn khổ lo buồn hay sung sướng vui vẻ (179) .

Lược Giải.-

Chữ nhẫn, ngoài nghĩa ẩn nhẫn, nhẫn chịu, còn có nghĩa chấp nhận, nhận định, nên nhẫn còn là bước trước hay là 1 tên của trí. Do vậy, nhẫn là nhẫn người, nhẫn cảnh, nhẫn chân lý, và được mệnh danh khác nhau, nhưng rõ nhất là nại oán hại nhẫn, an thọ khổ nhẫnđế sát pháp nhẫn. Chính văn ở đây chỉ nói 2 sự nhẫn người và nhẫn cảnh.

Nói Về Tiến

Chính Văn.-

Tu sự tiến như thế nào? Đối với thiện pháp (180) lòng không biếng nhác, không thoái lui, lập chí kiên cường, lánh xa khiếp nhược. Phải nghĩ nhớ luôn, rằng quá khứ xa xôi đến giờ ta đã chịu đựng những khổ não to lớn, nơi thân thể cũng như nơi tâm trí, nhưng không ích lợi gì cả, nên ngày nay ta phải siêng năng khó nhọc mà tu hành công đức để tự lợi lợi tha, thoát ly khổ não. Thêm nữa, người nào tu hành sự tin mà vì đời trước đến giờ có lắm tội nặng, nghiệp dữ, gây ra lắm sự trở ngại -- sự quấy phá của tà ma quỉ quái (181) , sự ràng buộc của thế sự đa đoan, sự hành hạ của bịnh tật đau đớn, có lắm sự trở ngại như vậy, nên người ấy phải dũng mãnh chuyên cần, ngày đêm sáu buổi (182) đảnh lễ Phật đà, thành tâm sám hối (gồm có mọi sự khuyến thỉnh, tùy hỷ, hồi hướng vô thượng bồ đề) (183) . Thường xuyên như vậy, không nghỉ, không bỏ, thì chướng ngại giải trừ, thiện căn tăng trưởng.

Lược Giải.-

Tu hànhnghịch lưu, bơi ngược dòng đời, nội một đời này bơi sao cho đến bờ bến bên kia, nên nội chướng ngoại chướng nhiều lắm, phải sám hối mà nhờ Phật lực.

Nói Lược Về Chỉ Quán

Chính Văn.-

Tu sự chỉ và sự quán như thế nào? Chỉ là đình chỉ sự phân biệt đối cảnh (184) , thuận với xa ma tha. Quán là quán sát sự tương quan chuyển biến (185) , thuận với tỳ bát xá na. Thuận như thế nào? Là hai sự ấy trước hết tu tập riêng ra, kế đó dần dần thêm lên, sau đó nhiệm vận song tu mà không còn rời nhau (186) .

Nói Chánh Định Chân Như

Chính Văn.-

Tu sự chỉ thì ở chỗ yên tĩnh, ngồi cho ngay, ý cho chính, không nghĩ đến hơi thở, không nghĩ đến thân hình, không nghĩ đến không, không nghĩ đến đất nước lửa gió, không nghĩ đến thấy nghe hay biết; mọi sự nghĩ, hễ nghĩ gì thì diệt trừ liền cái nghĩ ấy, lại diệt trừ luôn cái nghĩ diệt trừ -- Vì lẽ các pháp luôn luôn bất sinh, luôn luôn bất diệt, bản lai không có sự nghĩ. Cũng đừng tùy tâm mà nghĩ cảnh, sau đó đem tâm trừ tâm; hễ tâm nó nghĩ thì tức khắc ngưng lại, đứng yên nơi chánh niệm -- Chánh niệm là biết chỉ có tâm chứ không có cảnh, tâm ấy cũng không, không giây phút nào còn được.

Nếu từ chỗ ngồi đứng dậy, qua lại đi đứng mà làm việc gì thì lúc nào cũng tùy tiện mà tập như trên. Tập mãi sẽ thuần thục, tâm được đứng yên. Tâm đứng yên nên dần dần sắc bén, và thích ứng mà hội nhập chánh định Chân như, phiền não được dẹp thật sâu, sự tin được thêm càng lớn, mau chóng đạt đến sự không thoái chuyển. Ngoại trừ những kẻ hoài nghi, ngộ nhận, không tin, bài xích, tội nặng, nghiệp cản, tự cao, biếng nhác; những kẻ như vậy không thể hội nhập.

Do chánh định Chân như mà biết các pháp đồng nhất, thân Phật đà và thân chúng sinh đồng đẳng bất nhị, vì vậychánh định Chân như cũng có tên là chánh định Nhất hành. Lại vì chân nhưcăn bản của chánh định, nên tu tập chánh định Chân như thì dần dần phát sinh vô số chánh định.

Lược Giải.-

Khởi tín luận đề cao chân như, nên sự chỉ cũng nói về chánh định Chân như. Chánh định này trước đây đã nói là tâm ngay thẳng và tin căn bản. Ai nói tu Thiền thì học tập cho ky?chánh định này.

Nói Ma Sự Của Chánh Định Chân Như

Chính Văn.-

Có người không có sức mạnh của thiện căn nên bị sự mê hoặc quấy phá của tà ma, ngoại đạo, quỉ thần. Khi ngồi thiền như trên, chúng hiện hình thù dễ sợ, hiện nam nữ đẹp đẽ, nhưng người ngồi thiền ấy nghĩ nhớ rằng cái gì cũng do tâm mình mà có, thì những sự biến hiện ấy tan biến, không thể nào quấy phá. Có khi chúng hiện hình dáng chư thiên, hình dáng Bồ tát, hiện cả hình dáng đức Như lai nữa, tướng quí vẻ đẹp đủ cả; với những hình dáng ấy, chúng cũng nói minh chú, nói lục độ, nói bình đẳng, nói không, không sắc tướng và không ưa thích (187) , không thân thù, không nhân quả, không một cách triệt để, và đó là niết bàn chân thật. Chúng cũng làm cho người tu thiền này biết được đời trước của mình, biết việc quá khứ, biết việc vị lai, được cái biết biết tâm người khác, được tài hùng biện vô ngại, làm cho người tu thiền này ham thích danh vọngquyền lợi thế gian. Chúng cũng làm cho người tu thiền này hay giận hay mừng, tính tình bất thường; làm cho nhiều lòng thương xót, ngủ nhiều, bịnh nhiều; làm cho sinh ra biếng nhác, đột nhiên siêng năng rồi nghỉ bỏ liền, đâm ra không tin, lắm hoài nghi, lo nghĩ; làm cho bỏ cái việc siêu việt mà làm những việc tào tạp; làm cho mắc vào bao sự lôi kéo ràng buộc của thế gian. Chúng cũng làm cho người tu thiền này được những thiền định tương tự phần nào, nhưng toàn là thiền định của ngoại đạo, không phải thiền định chân thật. Có khi chúng làm cho những người ngồi thiền này ở trong thiền định một ngày, hai ngày, ba ngày, cho đến bảy ngày, được ăn uống những thứ tự có và thơm ngon, cơ thể và tâm trí đều vui đẹp, không đói không khát, làm cho những người này sinh ra đam mê; chúng cũng làm cho những người này ăn uống không chừng mực, khi nhiều khi ít, nhan sắc biến đổi.

sự thể trên đây, người tu hành phải thường dùng chánh tríquán sát, đừng để tâm thức của mình sa vào mạng lưới tà ma. Phải siêng mà chánh niệm, đừng ham đừng vướng mới thoát nổi những chướng ngại trên đây, toàn do nghiệp cũ mà có.

Lược Giải.-

Đoạn này phải được coi là bản trắc nghiệm của người tu thiền. Người tu thiền phải tự xét cho ky? coi mình có hay không có những gì được ghi trên đây.

Nói Sự Khác Nhau Giữa Tà ĐịnhChánh Định

Chính Văn.-

Phải nhận thức rằng mọi thứ thiền định của ngoại đạo toàn là bắt nguồn từ tâmngã kiến, ngã áingã mạn, vì còn ham thích danh vọng, quyền lợitôn kính của thế gian. Chân như chánh định không bám sự thấy, không ham sự được; hết ngồi thiền rồi càng không nhác, không tự đắc, bao nhiêu phiền não đã có thì dần dần kém và mỏng đi. Người thường mà không tu tập chánh định Chân như thì không có cái lẽ được nhập vào dòng giống của đức Như lai. Tu tập thiền định thế gian thì phần nhiều sinh ra đam mê, vì thiền định ấy bắt nguồn từ ngã kiến, lệ thuộc ba cõi, đồng loại ngoại đạo (188) . Do vậy, nếu tách rời sự giữ gìn của các bậc Thiện tri thức thì dễ sinh kiến thức ngoại đạo (189) .

Lược Giải.-

Tà định với chánh định khác nhau ở chỗ xuất từ cái ngã hay không, làm bớt cho đến hết nhác, đam mê, tự đắc và phiền não, hay trái lại. Người tu thiền phải lấy tiêu chuẩn này mà tự phán quyết cho nghiêm khắc.

Nói Hiệu Quả Của Chánh Định Chân Như

Chính Văn.-

Thêm nữa, nhất tâmtu tập chánh định Chân như một cách siêng năng tinh chuyên thì hiện tại sẽ được mười sự lợi ích. Một là được sự giữ gìn (190) của các đức Phật đà và các vị Bồ tát khắp cả mười phương. Hai là không bị mọi thứ tà ma ácquỉ làm cho khiếp sợ. Ba là không bị chín mươi lăm loại ngoại đạo (191) mê hoặc quấy phá. Bốn là xa rời sự phỉ báng chánh pháp sâu xa, tội nặng nghiệp chướng dần dần kém mỏng. Năm là loại được những sự hoài nghi, những ý nghĩ xấu. Sáu là đối với lĩnh vực của đức Như lai lòng tin được lớn thêm lên. Bảy là xa rời mọi sự lo buồn đau khổ, ở trong lĩnh vực sống chếtdũng mãnh chứ không khiếp sợ. Tám là tâm tính hòa nhã, xả bỏ kiêu ngạo, không bị người khác làm cho bực tức. Chín là lúc không ngồi thiền (192) mà, ở đâu và bao giờ, cũng bớt phiền não, cũng không đam mê thế sự. Mười là lúc ngồi thiền (192) thì không bị mọi thứ âm thanhngoại duyên làm cho kinh động.

Lược Giải.-

Những hiệu quả nào ở ngoài hay trái với những hiệu quả này, nhất là trái với những hiệu quả 4, 5 và 9, thì người tu thiền phải biết đó là tà ma.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12590)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10486)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12445)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11742)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28916)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12140)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13100)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11539)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12454)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17570)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53268)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35597)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21606)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10759)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19402)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12521)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26217)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13446)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14491)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16166)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13831)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16951)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17759)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13251)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12629)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11710)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11711)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14624)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20635)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19184)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19718)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18822)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12270)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12434)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13976)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15182)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15148)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 14077)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15620)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11504)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17332)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 15130)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20334)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14707)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13950)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11806)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15165)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 13077)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22996)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14646)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11745)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13257)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16985)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18444)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 12018)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11588)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15968)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12979)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 19014)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18578)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant