Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

2. Tông Chỉ Tạo Luận Khởi Tín

09 Tháng Bảy 201000:00(Xem: 6934)
2. Tông Chỉ Tạo Luận Khởi Tín

ĐẠI THỪA KHỞI TÍN LUẬN
(大乘起信論; S. Mahāyāna Śraddhotpāda Śāstra)
Thích Nhật Từ
(Bài dạy tại lớp Cao Đẳng Phật học TP.HCM, khoá IV-2005)

BÀI 2: 
TÔNG CHỈ TẠO LUẬN KHỞI TÍN

 

I. KÍNH LỄ TAM BẢO 

Nguyên Văn
Con cúi đầu đảnh lễ
[Tam Bảo] khắp mười phương:[1] 
Phật là bậc tuệ giác[2] 
Thánh hạnh không ai hơn[3]
Sắc thân luôn vô ngại[4]
Bậc đại bi cứu đời.
Giáo pháp của Thế Tôn[5] 
Bao la như biển lớn
Diễn bày lý vô ngã[6]
Kho công đức vô lượng.
Tăng là đoàn thể[7] quý
Người hành trì đúng cách[8]
Giáo pháp của Như Lai.
Để đạt được chánh giác.[9]
Nay tôi viết luận này[10]
Vì muốn giúp mọi người[11]
Chặt đứt được lưới nghi,
Dẹp tan kiến chấp sai,
Tin đúng về Đại thừa,
Tiếp nối hạt giống Phật.[12]

II. TÔNG CHỈ SÁNG TÁC

Một cách tóm tắt, mục đích sáng tác Khởi Tín Luận bao gồm bốn phần: 

a) Cắt đứt lưới nghi hoặc: về Phật, Pháp, Tăng, nhân quảgiải thoát; hiển thị chánh nghĩa. Đối với hành giả Đại thừa, nghi có hai loại: (1) nghi pháp làm chướng ngại sự phát tâm,(2) nghi môn làm chướng ngại sự hành trì.

b) Phá trừ các kiến chấp sai lầm: các chủ nghĩa và học thuyết ngoại đạo. Tà chấp căn bản gồm: (1) thần ý luận, (2) định mệnh luận, (3) ngẫu nhiên luận. Hoạt dụng của phá kiến chấp là giúp hành giả lìa các vọng khổ.

c) Phát khởi niềm tin về Đại thừa: hướng hành giả sơ tâm trở về con đường giác ngộchuyển hoá lớn. Chức năng hiển chánh rất quan trọng, nhằm đính chính các quan niệm sai lầm về Phật như thần linh, giáo pháp như bùa chú, và mặt khác, xiển dương giáo lý cao siêu của Đại thừa.

d) Làm cho giống Phật không mất: giúp hành giả làm sống dậy tiềm năng Phật tính vốn có.

 III. NHẬN XÉT

2.1. Cả hai bản Lương và Đường đều dịch thể thơ năm chữ, gồm 12 câu. Cách phân bổ của bản Đường cân đối hơn: bốn câu đầu tán thán Phật, hai câu kế tán thán pháp, hai câu 6-7 tán thán Tăng. Bốn câu cuối giới thiệu động cơ và mục đích sáng tác. Bản dịch đời Lương có 3 câu nói về Pháp, nhưng chỉ có một câu nói về Tăng, nên hơi tối nghĩa. Bố cục của các phần còn lại giống với bản đời Đường.

2.2. Khởi Tín Luận bắt đầu bằng bài kệ tán dương Tam Bảo, nền tảng quy ngưỡngthực hành của tất cả hành giả. Đưa ba ngôi báu lên trên mục đích sáng tác Khởi Tín Luận, ngài Mã Minh cho thấy tất cả các luận sư nói riêng và con Phật nói chung cần phải biết trở về cội nguồn tâm linh của mình. Nhờ đó, việc làm của luận chủ không trở thành tán dương bản ngã. Nói cách khác, tất cả việc làm phải được thiết lập trên sự xiển dương Tam Bảo thì mới được gọi là Phật sự.

2.3. Hình ảnh đức Phật được ngài Mã Minh tán dương bao gồm ba phương diện: trí tuệ viên mãn, hạnh đức tròn đầy và sắc thân vô ngại. Với hạnh đức tròn đầy, Phật trở thành tấm gương hành trì tâm linh. Với trí tuệ viên mãn, Phật sẽ hoá độ nhiều người trở về con đường tỉnh thức. Với sắc thân vô ngại, Phật đến và đi tự tại, không hệ thuộc không gian địa lý và thời gian vật lý. Ba đức tính quan trọng này có thể đại diện cho các đức tính cao quý khác của đức Phật, thường được gọi bằng danh xưng là “Như Lai thập hiệu.” 

Mười hiệu cuả Phật là: “Phật (Buddha = bậc giác ngộ) là Như Lai (Tathāgata), bậc A-la-hán (Arhat), bậc Đại Giác Ngộ (Samyaksambuddha), bậc Tuệ Đức Đầy (Vidyācaranasampanna), bậc Khéo Vượt Qua (Sugata = thiện thệ), bậc Hiểu Thế Giới (Lokavid), bậc Điều Phục Đời (Purushadamyasârathi = điều ngự trượng phu), bậc Vĩ Đại Nhất (Anuttara = vô thượng sĩ), bậc Thầy Trời Người (Cāstādevāmanushyānām).” 

2.4. Dharma theo ngài Mã Minh bao gồm tất cả lời Phật dạy. Ngài đã dùng ảnh dụ “đại dương” bao la, không ngằn mé để mô tả bản chấtcông dụng của giáo pháp. Theo đó, thể tướng của giáo pháp vượt khỏi mọi tà thuyết, như biển sâu thẩm, bao hàm vạn vật; như biển bao la, không thiếu đức gì, như biển nhiều báu, không vật nào không hiện. Trọng tâm của giáo pháp nhằm khai thị và xiển dương đạo lý vô ngã. Nói cách khác, “vô ngã” được xem là dấu ấn của triết họctâm học Phật giáo. Bản Lương không nói về “lý vô ngã” (無我句). Bản Đường ghi rõ hơn “vô ngã cú nghĩa pháp” 無我句義法 có nghĩa đen là “pháp của Phật giải thích rõ về học thuyết vô ngã.” Vô ngã cú dịch sát từ chữ Sanskrit là “anātman-vada.” Cần lưu ý “vāda” trong ngữ cảnh này không có nghĩa là “cú” mà có nghĩa là học thuyết, chủ nghĩa. Vô ngã cú có nghĩa là học thuyết vô ngã hay nguyên lý vô ngã. HT. Trí Quang dịch “tức biển pháp tánh, chân như phi ngã” là phối hợp ý tưởng của hai bản dịch đời Lương và đời Đường, nhằm bổ túc những điểm có trong bản này nhưng không có trong bản khác. 

Các nhà sớ giải kinh tạng Đại thừa phân giáo pháp thành bốn loại: a) giáo (thiển = đơn giản, súc tích), b) lý (thâm = sâu sắc, có tác dụng lớn), c) hạnh (phần = chi mục và giai đoạn), d) quả (viên = trọn vẹn, đầy đủ). Chính vì thế mà giáo pháp được quan niệm như kho tàng vô giá hay kho công đức vô lượng của tất cả chúng sinh.

Trong Kinh tạng Pali, đặc biệt là Kinh Trung Bộ, có sáu giá trị quan trọng của lời Phật dạy, vượt lên trên giá trị nhất thời của các tôn giáo, chủ nghĩahọc thuyết

a) Diễn bày khéo léo = giáo pháp được đức Phật thuyết giảng rất tài tình (Pali: svākkhāto bhagavā dhammo), ứng hợp với căn tính của người nghe, giúp họ được lợi lạc

b) Thiết thực hiện tại (Pali: sandiṭṭhiko = realizable here and now). Giáo pháp này có giá trị tức thờihiệu nghiệm nhanh chóng, giúp cho người thực tập đạt được an vui và hạnh phúc, không cần phải đợi sau khi chết.

c) Siêu việt thời gian (Pali: akāliko), giá trị của lời Phật dạy không bị hạn cuộc ba chiều thời gian: quá khứ, hiện tạivị lai. Chủ nghĩa, học thuyết có thể bị thay thế nhưng lời Phật dạy không bao giờ bị sai lệch theo thời đại. Giáo pháp của Phật là chân lý muôn đời.

d) Đến để mà thấy = thấy trước tin sau (Pali: ehipassiko), khác với các tôn giáo là “đến để mà tin.” Phật dạy mọi người hãy tiếp cận với đạo Phật bằng sự quan sát và thực nghiệm. Điều này xác định rằng giáo pháp của Phật thoát khỏi các mặc định đức tin tôn giáo thông thường. Đến với đạo Phật bằng con đường nhận thức thì niềm tin Tam Bảo mới chân chánh và bền bĩ.

e) Có khả năng hướng thượng (Pali: opanayiko): hiệu năng của giáo pháp không nhằm tăng cường tri thức cho người tiếp nhận, mà nhằm cung ứng các năng lực phát triển tâm linh, để đương sự có thể tự mình thắp đuốc lên mà đi trong an vui và giải thoát.

f) Được người có trí chứng hiểu (Pali: paccataṁ veditabbo viññūhi). Đặc tính này xác định rằng đạo Phật không dành chỗ đứng cho các tập tục mê tín dị đoan phát triển. Triết lý thực tiễn của đạo Phật chắc chắn được các bậc thức giả chấp nhận và thấu hiểu. Đặc điểm này còn ngụ ý cho rằng giáo pháp Phật cần phải được tiếp nhận bằng con đường tuệ giác hành trì. Dùng kiến thức thông thường và tín ngưỡng tôn giáo không thể hiểu thấu được đạo lý cao siêu của Phật.

2.5. Tăng bảo được ngài Mã Minh tán thán bao gồm trước nhất là các vị thánh tăng với bốn đôi tám chúng, và kế đến là các vị Bồ-tát tăng. Rõ ràng không phải là hàng phàm tăng qua hình thức “viên đỉnh phương bào.” 

Tăng bảo được ngài Mã Minh tán ngưỡng qua hai phương diện

a) Hành trì một cách trung thành và chân chánh giáo pháp của đức Phật, dĩ nhiên giáo pháp ở đây là giáo pháp đại thừa 

b) Mục đích của sự hành trì đó chính là nhằm đạt được quả vị giác ngộgiải thoát, chứ không hướng về bất kỳ thế lợi nào. 

Trong Kinh tạng Pali, tăng bảo được mô tả qua bốn đức tính sau đây:

Diệu hạnh (Pali: supaṭipanno), tức đức hạnh trang nghiêm, làm tăng giá trị đời sống thanh bần lạc đạo của người xuất gia.

Trực hạnh (Pali: ujupaṭipanno): đức tính chân chất, chánh trực hay tính tình thẳng thắn của người tu, không quanh co, tráo trở, không đầu voi đuôi chuột trong tư cách và đối tác với người xung quanh.

Như lý hạnh (Pali: ñāyapaṭipanno) tức hành động mang chất liệu tuệ giác, khế hợp với chân lý hay hành động khôn ngoan với mục đích và nội dung chuyển hoá phàm tình thành thánh trí.

Chánh hạnh (Pali: sāmīcipaṭipanno): đức hạnh chân chánh hay sự thực hành chính nghĩa như một yêu cầu không thể thiếu để giúp hành giả đạt được thánh quả

 IV. CHÚ THÍCH TỪ NGỮ

Biến tri: cái biết phổ quát và không bị hạn lượng. Trong Phật giáo, biến tri chính là tuệ giác hiểu rõ được bản chất vận hành của mọi sự vật hiện tượng, trên nền tảng của duyên khởitứ đế. Đây là trí tuệ thẩm thấu mọi vật (vô bất viên cực). Thể của tuệ giác vô không hai.

Cứu thế: tức thế gian của chúng sinh, đối tượng cứu độ của Phật.

Quy mạng: “quy” có nghĩa đen là “nương tựa” (y) hay “hướng về” (hướng thú), còn có nghĩa là “trở về nguồn” (hoàn nguyên). Mạng có nghĩa đen là mạng sống (sinh mệnh). Trong Phật giáo, “quy mệnh” là thuật ngữ diễn tả hành động cúi đầu đảnh lễ một cách chí thành, như chứng tỏ lòng quy kính của hành giả đối với Phật, Pháp, Tăng. Đối tượng quy mạng ở đây rất lớn và không hạn lượng, đó là, Phật Pháp Tăngmười phương thế giới. Trong Phật giáo Pali, đối tượng quy mạng chính yếuđức Phật Thích-ca lịch sử, không có niềm tin về chư Phật ở các hành tinh khác ngoài hành tinh con người đang sống.

sắc vô ngại: sắc thân của Phật không bị trở ngại bởi không gianthời gianHoa nghiêm: Phật thân vô khứ diệc vô lai/ Sở hữu quốc độ giai minh kiến (thânPhâtj không đến cũng không đi/ Bất kỳ cõi nào cũng thấy được => thân Phật được ví như mặt trời, nơi nào không bị mây mù che phủ đều thấy được)...Phật thân sung mãn ư pháp giới/ Phổ hiện nhất thiết chúng sinh tiền/ Tuỳ duyên phó cảm ma bất châu/ Nhi thường xử thử bồ-đề toà.

Tối thắng: không có gì hơn, không có ai hơn, siêu việt nhất. Đây là thuật ngữ diễn ca ngợi đức tính vô song của đức Phật. Có thể diễn đạt bằng văn xuôi như sau: Phật bảo dã, tối thắng giả, nghĩa là: “Phật là bậc siêu việt nhất” hay “Phật là bậc không có ai hơn.” Bản sớ giải ghi: “quá tiểu viết thắng, siêu nhân viết tối” có nghĩa là “thắng là vượt lên trên tiểu thừa, còn “tối” có nghĩa là siêu việt khỏi nhân.” Bản sớ giải khẳng định: “siêu nhân” chính là “quả Phật.”

Vô ngại: 1) đại tiểu vô ngại: mỗi căn đều cùng pháp giới nhưng không lẫn lộn với nhau. 2) hỗ dụng vô ngại: các căn tương tác hỗ trợ lẫn nhau. 3) sự lý vô ngại: 4) ứng cơ vô ngại.

[1] HT. Thiện Hoa đã dịch tóm tắt bảy câu tán dương Tam Bảo như sau: “Kính lạy Phật, Pháp và Tăng” (tr. 249)

[2] Gọi đủ là “bậc tuệ giác vô thượng.” Hán gọi là biến tri, viết tắt của biến tri giả (遍知者).

[3] Lương: tối thắng nghiệp (最勝業) tức hạnh đức của Phật siêu tuyệt, không ai trong đời có thể so sánh với ngài được. Hai câu ba và bốn này dịch từ câu “tối thắng nghiệp biến tri” (最勝業遍知). Có lẽ đây là dịch ngữ của từ “Vidyācaranasampanna” mà người Trung Hoa thường gọi là bậc “minh hạnh túc” tức bậc hạnh đức và trí tuệ tròn đầy.

[4] Dịch thoát ý từ câu: “sắc vô ngại tự tại” của bản đời Lương, vốn có nghĩa đen là “Sắc thân của Phật rất tự tạivô ngại.” Trong khi đó, bản đời Đường ghi là “trí vô ngại tự tại” (智無限自在) không đề cập đến sắc thân của Phật, mà nói công dụng của biến triloại trí tuệ tự tại và không bị hạn cuộc.

[5] Lương: “pháp là thể tướng của chính thân Phật.” (及彼身體相/ 法性真如海)
 Khái niệm “pháp thân” trong Đại thừa thường được hiểu với nghĩa đen là “giáo pháp chínhthân thể của Phật.” Khái niệm “chân như” ở đây không có nghĩa “thể tính chân như của mọi sự vật” mà có nghĩa đen “đích thực là.”

[6] Bản Lương không nói về “lý vô ngã” (無我句). Bản Đường ghi rõ hơn “vô ngã cú nghĩa pháp” 無我句義法nghĩa đen là “pháp của Phật giải thích rõ về học thuyết vô ngã.” Vô ngã cú dịch sát từ chữ Sanskrit là “anātman-vada.” Cần lưu ý “vāda” trong ngữ cảnh này không có nghĩa là “cú” mà có nghĩa là học thuyết, chủ nghĩa. Vô ngã cú có nghĩa là học thuyết vô ngã hay nguyên lý vô ngã. HT. Trí Quang dịch “tức biển pháp tánh, chân như phi ngã” là phối hợp ý tưởng của hai bản dịch đời Lương và đời Đường, nhằm bổ túc những điểm có trong bản này nhưng không có trong bản khác.

[7] Dịch thoát nghĩa của chữ đẳng () của Lương.

[8] Lương: như thật tu hành (如實修行).

[9] Dịch từ bản Đường: cần cầu chánh giác giả (勤求正覺者).

[10] Đường: cố ngã tạo thử luận 故我造此論, có nghĩa đen là “vì vậy tôi đã sáng tác ra bộ luận này.”

[11] Hai bản Lương và Đường ghi là “chúng sinh” (眾生). 

[12] Lương: Phật chủng bất đoạn 佛種不斷, có nghĩa đen là làm cho hạt giống Phật không bị mất đi. Đường: thiệu Phật chủng 紹佛種, có nghĩa đentiếp nối hạt giống Phật.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31334)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26225)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 27525)
Nội dung kinh này thuyết minh về Như lai tạng, quả đức của Phật. Nói rõ hành giả đoạn trừ phiền não nào, để chứng đắc Nhị thừa quả... HT Thích Đức Niệm dịch
(Xem: 27910)
Sa-môn Gotama từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. - Này các Tỷ-kheo, đó là lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
(Xem: 26714)
Tác phẩm của Tiến sĩ Thích Minh Châu có nhiều khám phá đáng ngạc nhiên. Ông đã chứng minh rằng bản kinh A-hàm (Àgama) bằng chữ Hán và bản kinh bộ Pàli (Pàli Nikàya) này có rất nhiều điểm tương đồng và cũng khá nhiều dị biệt.
(Xem: 31232)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20263)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22926)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30052)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21574)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20244)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 22665)
đệ tử Phật thì nên hết lòng, ngày cũng như đêm, đọc tụngquán niệm về tám điều mà các bậc đại nhân đã giác ngộ... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 20752)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 30315)
Trong thành Vương Xávị cư sĩ tên Hiền Hộ là bực thượng thủ năm trăm vị cư sĩ, các vị nầy đều thọ trì năm giới gìn giữ từ cử chỉ nhỏ nhặt...
(Xem: 28793)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34726)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 44228)
Kinh BÁCH DỤ gồm gần một trăm câu truyện ngụ ngôn đầy sinh độngsúc tích ẩn tàng các giá trị triết lý giáo dục nhân sinh do Đức Phật kể ra để dạy về giáo lýgiáo pháp.
(Xem: 35514)
KINH PHÁP CÚ là cuốn Kinh chọn lọc những lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế. Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ...
(Xem: 22544)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21379)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 20687)
Như Lai nơi nhân địa tu theo tự tánh Viên Giác, chiếu soi bản thể của tự tánh vốn tịch diệt, biết rõ thân tâm thế giới như hoa đốm trên không... Thích Hằng Đạt dịch
(Xem: 24759)
Nguyên văn chữ Hán của Kinh Viên Giác chỉ có hơn mười ba ngàn chữ mà bao gồm tất cả giáo pháp đốn tiệm của thượng cănhạ căn... HT Thích Duy Lực dịch
(Xem: 37923)
Kinh Hoa Nghiêmbộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân, tư tưởngtâm nguyện của Phật.
(Xem: 19043)
Dưới đây là bảng tóm tắt so sánh các bộ Luật Tỳ-kheo hiện đang lưu hành - Bình Anson
(Xem: 19330)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 21823)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0365 - Hán dịch: Lương Da Xá; Việt dịch HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 20871)
CỔ NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích - Việt dịch: Sa-môn THÍCH ÐỔNG MlNH - Nhuận văn và chú thích: Sa-môn THÍCH ÐỨC THẮNG
(Xem: 29523)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35131)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28818)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 32602)
Hết thảy nội dung được đề cập đến trong tập sách này đều được thể hiện một cách vô cùng sáng tạo, linh hoạt, với rất nhiều ví dụ thích hợp luôn luôn đi kèm theo mỗi vấn đề...
(Xem: 26223)
Bốn tâm vô lượng là cõi nước thanh tịnh của Bồ Tát, khi Bồ Tát thành Phật, những chúng sinh thành tựu các đức từ, bi, hỷ, xả sinh về nước ấy... Đoàn Trung Còn, Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 28933)
Nhất thời, Phật tại Tỳ-da-ly, Am-la thọ viên, dữ đại tỳ-kheo chúng bát thiên nhân câu. Bồ Tát tam vạn nhị thiên, chúng sở tri thức.
(Xem: 43151)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 34968)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 43931)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37904)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21333)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 43026)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 49015)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39841)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53782)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36827)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40815)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49739)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47312)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27698)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 27027)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27233)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24071)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20848)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34321)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22468)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25123)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
(Xem: 25848)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 22954)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22473)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21762)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23321)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21188)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant