Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bài Thứ 3: Chương Phổ Nhãn

23 Tháng Bảy 201000:00(Xem: 7265)
Bài Thứ 3: Chương Phổ Nhãn

PHẬT HỌC PHỔ THÔNG
Hòa Thượng Thích Thiện Hoa
Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh Ấn Hành 1997
KHOÁ THỨ 8: KINH VIÊN GIÁC


Bài thứ ba

III. CHƯƠNG PHỔ NHÃN

 

1. Ngài Phổ Nhãn hỏi Phật
2. Phật khen ngài Phổ Nhãn
3. Phật dạy phương pháp tu
4. Phật dạy quán “Thân” như huyễn
5. Phật dạy quán “Tâm” như huyễn
6. Huyễn hết thì chơn hiện
7. Dùng ngọc Ma ni dụ tánh Viên Giác
8. Vì có kẻ lìa huyễn và người chưa lìa được, nên phân ra có Thánh và Phàm
9. Viên Giá chiện,t hì các pháp đều thanh tịnh
10. Vì hiện tượng bình đẳng nên bàn thể bình đẳng
11. Bàn thể và hiện tượng khắp cả mười phương.
12. Vì chứng Viên Giác nên thấy các Pháp bình đẳng
13. Tu và chứng mà thật ra không có tu và chứng
14. Sanh tửNiết bàn đều như mộng
15. Các pháp bình đẳng
16. Tóm lại
17. Phật nói bài kệ tóm lại các nghĩa trên

 

1. Ngài Phổ Nhãn hỏi Phật

Khi ấy ngài Phổ Nhãn bồ tát, ở trong đại chúng đứng dậy đi quanh bên hữu của Phật ba vòng, rồi chắp tay đảnh lễ và quỳ thẳng bạch rằng:

-Bạch Đức Thế Tôn, xin Ngài vì các vị Bồ tát ở trong hội này và tất cả chúng sanh đời sau, giảng dạy thứ lớp tu hành của Bồ tát.

Bạch Thế Tôn, như chúng sanh kia, khi nghe Phật nói Pháp “ly huyễn tam muội” này, tâm sanh mê muội, vì không biết làm sao để hạ thủ công phu. Vậy, nếu khôngphương tiện chơn chánh và suy nghĩ chơn chánh, thì không thể ngộ nhập được Viên Giác.

Xin Ngài mở lòng từ bi, vì những người chưa ngộ như chúng con hiện tại và các chúng sanh đời sau, tạm lập ra các phương tieẹn: Phải tu hành thế nào? Phải suy nghĩ (tư duy) làm sao? Phải an trụ và giữ gìn (trụ trì) thế nào mới được ngộ nhập Viên Giác?

NGài Phổ Nhãn Bồ tát thưa thỉnh như vậy ba lần, kính cẩn lễ Phật rồi trở lui.

 

LƯỢC GIẢI

Đoạn trước Ngài Phổ Hiền Bồ tát hỏi Phật, ý hỏi rất u thâm - Phật xứng theo lý Viên đốntrả lời rằng: “Giác ngộ, không có từng tự; biết huyễn là lìa được huyễn, không cần phương tiện.”

Ngài Phổ Nhãn Bồ tát, vì thấy Phật nói Pháp môm “Viên đốn” như thế, nghĩ rằng: duy có những người trình độ cao thượng mới có thể làm được; trái lại những kẻ căn cơ thấp kém, nếu không có tạm lập phương tiện và chỉ dạy thứ lớp tu hành thì làm sao ngộ nhập được. Vì vậy, nên qua chương này, Ngài PHổ Nhãn Bồ tát cầu Phật tạm lập phương tiện và chỉ dạy thứ lớp tu hành, để cho chúng sanh có thể hạ thủ công phu, nhập được Viên Giác.

Tóm lại các câu hỏi của Ngài Phổ Nhãn hỏi Phật, gồm trong hai phần:

1. Hỏi về “Tu Huệ” tức là câu hỏi “phải suy nghĩ thế nào cho chơn chánh?”

2. Hỏi về “Tu Hệ” tức là câu hỏi “phải an trụ và giữ gìn thế nào? Tạm lập phương tiện tu hành và thứ lớp tu làm sao, mới ngộ nhập được Viên Giác”?

 

*****

 

2. Phật Khen Ngài Phổ Nhãn

Khi đó đức Thế Tôn khen Ngài Phổ Nhãn Bồ tát và dạy rằng:

-Này thiện nam, quý lắm! Ông vì các vị Bồ tát hiện tạichúng sanh đời sau, cầu thỉnh Như lai tạm lập phương tiện tu hành và chỉ dạy thứ lớp tu làm sao, phải suy nghĩ làm sao cho chơn chánh (tư huệ), phải an trụ và giữ gìn thế nào (tu huệ). Vậy các ông nên chăm chú nghe, ta sẽ vì các ông khai thị.

Khi đó Ngài Phổ Nhãn Bồ tátđại chúng đều hoan hỷ, kính cẩn và chăm chú nghe lời Phật chỉ giáo.

 

LƯỢC GIẢI

Đoạn này Phật khen ngài Phổ Nhãnđại chúng cầu Phật tạm lập phương tiện tu hành để nhập Viên Giác. Trong câu hỏi gồm có hai phần: 1. Hỏi về Tư huệ, 2. Hỏi về tu huệ

 

**

 

3. Phật dạy Phương pháp tu

-Này Thiện Nam, những hàng sơ học Bồ tát và các chúng sanh đời sau, muôn ngộ nhập tâm Viên Giác thanh tịnh của Như Lai, thì cần phải Chánh niệm(1), và xa lìa các vọng huyễn. Vậy trước hết phải:

1. Y theo pháp “chỉ” của Như Lai (Đại thừa định)

2. Giữ gìn giới cấm kiên cố

3. Sắp xếp đồ chúng cho yên ổn (sắp xếp hoàn cảnh xung quanh cho thuận tiện)

4. Ở chỗ thanh vắng

5. Phải suy nghĩ như sau:

 

LƯỢC GIẢI

Tổ sư dạy: “Thật tế lý địa bất thọ nhứt trần, Phật sự môn trung bất xả nhứt pháp”. Nghĩa là: Về chỗ lý tánh tuyệt đối thì không thọ một mảy may gì; nhưng về sự tướng tu hành thì không bỏ một việc lành nào cả.

Đành rằng, về cảnh giới Viên Giác, chúng ta nói không trúng, suy nghĩ cũng nhằm; “giác ngộ” không có tiêm thứ, “rời huyễn” chẳng cần phương tiện; nhưng khi hạ thủ công phu (bắt tay vào việc tu hành) thì không thể bỏ qua các sự tướng tu trì.

Đại ý đoạn này Phật dạy khi hạ thủ công phu, trước phải dung: 1. Giới, 2. Định (chỉ), 3. Huệ (tức là câu “thường suy nghĩ như vậy” ở đoạn sau), 4. Sắp xếp các ngoại duyên cho được yên ổn.

Trong chương PHổ Hiền, Phật dạy: “Biết huyễn là lìa được huyễn, không cần phương tiện chẳng có tiệm thứ”. Đồng với trong kinh Lăng Nghiêm Phật dạy: “bất tùy phân biệt” (không theo trần cảnh khởi vọng niệm phân biệt).

Đoạn kinh này, Phật dạy phải dùng: “Giới, Định, Huệ, và sắp xếp các ngoại duyên cho được thuận tiện”. Cũng như trong Đại cương Lăng Nghiêm về bài thứ 12, Phật dạy tu “Giới, Định, Huệ” và “ba món tiệm thứ”.

 

**

 

4. Phật dạy Quán than này như huyễn

-Phải thường nhớ nghĩ như vầy: Cái than của ta nay đây, là do bốn chất: đất, nước, gió, lửa hòa hiệp. Như da, thịt, gân, xương, răng, tóc, móng tay, tủy, não v.v… là thuộc về nước; nhiệt độ trong người là thuộc về lửa; phổi hô hấp, tim đập, mạch nhảy, các chuyển động trong người là thuộc về gió.

 

________

(1) Chữ “Chánh niệm” là niệm chơn chánh. Trong Viên Giác lược sở giải: Rời các vọng huyễn, dứt hết các vọng niệm thế mới là: “chánh niệm”

 

 

Đến khi bốn chất này rã rời, không còn hòa hợp nữa, thì cái than hư dối này (cái ta) ở chỗ nào?

 

LƯỢC GIẢI

Người đời, ai cũng chấp than này là ta, rồi thương yêu quý trọng nó, cho nên suốt đời lao tâm nhọc trí, vật lộn với vật chất một cách vất vả, cũng vì lo cho ta ăn, mặc và ở v… Lo cho ta rồi lo cho bà con quyến thuộc của ta, lo cả cho đồng bào chủng loại của ta.

Nếu ta được là người mất, đồng bào ta được thì đồng bào người phải bị mất. Vì vậy mà t hế giới chiến tranh, nhơn loại tương tàn tương sát. Chúng sanh tạo không biết bao nhiêu điều tội lỗi, rồi vĩnh kiếp luân hồi.

Bởi thế nên đoạn này Phật dạy, khi hạ thủ công phu là quán than như huyễn (vô ngã). Khi đã thấy xác thật thân này là hư huyễn rồi, thì không còn tham lam luyến ái, vì nó mà tạo ra các tội lỗi, để rồi thọ quả báo sanh tử luân hồi.

Muốn cho độc giả thưởng thức được lý thú ở đoạn này, nên tôi dẫn một đoạn trong bài thơ “Nguyện cầu” của một thi sĩ sau đây:

Ta còn để lại gì không?

Kìa non nước chảy, nọ sông cát bồi!

Lang thang từ độ luân hồi

U minh nẻo trước, xa khơi dặm về

Trông ra bến thảm bờ mê

Nghìn thu nửa chớp, bốn bề một phương

Ta van cát bụi trên đường

Dù nhơ dù sạch, đừng vương gót này.

*

5. Phật dạy quán tâm như huyễn

-Này Thiện nam! ông đã biết thân này rốt ráo không thật có, chẳng qua do các duyên hòa hiệp làm ra thân tướng giả tạm, đồng với loại huyễn hóa.

Do bốn duyên là đất, nước, gió, lửa hoà hợp, nên vọng có sáu căn là mắt, tai , mũi, lưỡi, thân và ý. Nhơn bốn duyên và sáu căn, trong ngoài hợp lại thành cái thân giả tạm, rồi vọng khởi ra các vọng tưởng phân biệt. Các vọng tưởng phân biệt tích tụ trong thân này in như có cái hình tướng “năng duyên”, duyên theo bóng dáng của trần cảnh, nên giả gọi đó là “Tâm”.

-Này Thiện nam! cái tâm hư vọng phân biệt này, nếu khôngtrần cảnh thì không còn phân biệt được cái gì cả. Lại nữa, khi bốn duyên (tứ đại) rã rời rồi, thì thân giả tạm này cũng không còn. Lúc bấy giờ, cái vọng niệm phân biệt bị tích tụ trong thân thường duyên theo bóng dáng của sáu trần đó, cũng bị phân tán. Rốt cuộc rồi không còn thấy có cái gì mà gọi là “Tâm” cả.

 

LƯỢC GIẢI

Về chương Văn Thù, Phổ Hiền, Phật dạy quán “Cảnh như huyễn”, đến chương Phổ Nhãn này, trước Phật dạy quán “Thân như huyễn” rồi sau quán “Tâm như huyễn” là vì lối tu hành phải bắt đầu từ dễ đến khó, từ cạn đến sâu. Trước quán “cảnh như huyễn” tuy khó, nhưng chưa khó lắm, đến quán “Thân như huyễn” mới là khó hơn. Đi sâu vô một từng nữa là quán “Tâm như huyễn” lại càng khó hơn nữa.

Đại ý đoạn này, Phật dạy quán “Tâm như huyễn”, không có thật thể. -Người đời thường chấp tâm này (linh hồn) la ta, cái ta này thường còn không biến đổi; nếu ta (linh hồn) là người thì khi chết rồi trở lại làm người; còn ta là thánh thì chết rồi trở lại làm thánh, không có thay đổi; người có tu không sợ tội lỗi, chẳng ham phước lành, gây tạo nhiều tội ác rồi nhiều kiếp trầm luân, chịu không biết bao nhiêu khổ sở.

Vì thương kẻ mê lầm này, nên Phật dạy quán “Tâm như huyễn”. Khi hành giả quán thân và tâm (linh hồn) đều như huyễn, không phải thật ngã (ta) một cách xác thật rồi, thì không còn vì nó mà tạo các tội lỗiTội lỗi không tạo, vọng niệm chẳng sanh, huyễn thân và huyễn tâm đều dứt hết, thì tánh Viên Giác, thanh tịnh không hư huyễn hiện ra, lúc bấy giờ hành giả ra khỏi sanh tử luân hồi.

 

6. Huyễn hết thì chơn hiện, như bụi sạch thì gương sáng

-Này Thiện nam! Vì “huyễn thân” của chúng sanh kia diệt, cho nên “huyễn tâm” cũng diệt; do “huyễn tâm” diệt, cho nên cái “huyễn trần” cũng diệt; do “huyễn trần” diệt, nên cái “huyễn diệt” đó cũng diệt luôn. Bởi thâm tâm là tướng trần cấu hư huyễn đã hoàn toàn diệt, nên lúc bấy giờ tánh “Viên Giác phi huyễn” hiện ra, thanh tịnh khắp cả mười phương. Thí như lau gương khi bụi hết thì gương sáng tự hiện bày.

 

LƯỢC GIẢI

Đại ý đoạn này Phật dạy các huyễn tuần tự diệt. Có năm lớp:

1. Huyễn Thân diệt

2. Huyễn Tâm diệt

3. Huyễn Trần (pháp) diệt

4. Huyễn Trí diệt

5. Phi Huyễn (Viên Giác) hiện

Như lau gương sạch bụi thì ánh sáng hiện ra.

*******

 

7. Dùng ngọc Ma-Ni dụ tánh Viên Giác

-Này Thiện Nam! Dụ như ngọc Ma-ni trogn sáng, tùy mỗi phương chiếu hiện ra năm màu; nhưng người quê mùa không biết, cho năm màu (dụ cho ngũ uẩn) kia là thật có.

Tánh Viên Giác thanh tịnh cũng thế, tùy các loạiứng hiện ra mỗi thân tâm (ngũ uẩn) không đồng. Những kẻ mê muội lại chấp cho thân tâm đó là thật có, vì thế nên không thể xa lìa được các tướng huyễn hóa hư vọng.

 

LƯỢC GIẢI

Luận về “bản tánh Viên Giác” thì sáng suốt thanh tịnh không có một mảy trần, tức là nghĩa “chơn không”; nhưng tùy theo nghiệp mà biến hiện, không một loài vật nào chẳng có, tuy có mà không thật có, tức là nghĩa “diệu hữu”.

Tánh Viên Giác không hai, nhưng tùy theo vọng nghiệp của mỗi loại mà biến hiện các vật ngàn sai muôn khác. Người khéo dùng thì nó hiện ra Tứ Thánh (Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật). Kẻ vụng dùng thì nó hiện ra lục phàm (Thiên, Nhơn, A-Tu-La, Địa ngụ, ngạ quỷ, súc sanh). Cũng như trong kinh Lăng nGhiêm Phật dùng giây đờn thí dụ: trong giây đờn không có tiếng hay tiếng dở; tùy người biết sử dụng thì nó phát ra tiếng hay, còn người không biết sử dụng thì nó phát ra tiếng dở. Cũng một giây đờn đó, hay dở chỉ tại người khéo hay vụng mà thôi.

Đoạn kinh trên nói: “Ngọ Ma-ni trong suốt là dụ cho tánh “Viên Giác thanh tịnh”; nói “ngọc Ma-ni tùy mỗi phía hiện ra ngũ sắc” là dụ cho tánh “Viên Giác tùy mỗi loại hiện thân ngũ uẩn”.

Đại ý đoạn này nói “Trong ngọc Ma-ni trong suốt không có ngũ sắc, nhưng vì tùy mỗi phương, ánh chiếu in như có ngũ sắc. Trẻ con không biết, lầm tưởng ngũ sắc kia là thật có, rồi sanh tâm tham muốn khóc đòi v.v... chớ đâu biết rằng “ngũ săác” kia không thật. Cũng như trong tánh Viên Giác thanh tịnh không có ngũ uẩn, nhưng tùy theo nghiệp chúng sanh vọng thấy in như có năm uẩnChúng sanh mê muội không biết hư huyễn, lại chấp cho là thật có, rồi sanh tham mê ái luyến, tạo ra các nghiệp. Vì thế mà bị triền miên trong sanh tử, không bao giờ ra khỏi các vọng huyễn.

 

*********

 

8. Vì có kẻ lìa huyễn và người chưa lìa được, nên phân có thánh và phàm

-Này Thiện nam! Bởi đối với những kẻ mê muội chấp thân tâm huyễn cấu này là thật có, không thể xa lìa được, nên ta gọi đó là chúng sanh.

Đối với người đã xa lìa được thân tâm cấu huyễn thì ta gọi đó là Bồ tát. Đến khi các “huyễn cấu” hết, “pháp đối trị” trừ, “trí đối trị” cũng không, cho đến không còn danh từ để kêu gọi, và lời nói để luận bàn (người không cảnh vắng, các vọng hoàn toàn diệt, thì gạm gọi là Viên Giác hay Phật).

-Này Thiện nam! Các Bồ tátchúng sanh đời sau, khi diệt hết các ảnh tượng vọng huyễn rồi thì tánh “Viên giác thanh tịnh” hiện ra, khắp cả vô biên hư không, không có ngằng mé và phương hướng.

 

LƯỢC GIẢI

Những người mê muội, không biết các pháp đều do tánh VIên Giác huyễn hiện, lại chấp cho là thật có, rồi sanh ra ái luyến triền miên, nên Phật gọi là “chúng sanh”. Những người biết được các pháp hư huyễn đều do Viên Giác sanh, đã dùng pháp đối trịxa lìa, thì Phật gọi đó là “Bồ tát”. Lên một từng nữa là khi các “cảnh huyễn cấu” hết “pháp trừ huyễn” không, “trí đối trị” chẳng còn, “danh từ kêu gọi” và “lời nói luận bàn” cũng không, cho đến “người” cũng chẳng còn: cảnh vắng người không. Như bệnh hết, thuốc bỏ, ông thầy thuốc cũng không còn. Các vọng huyễn hoàn toàn diệt hết, thì cảnh giới Viên Giác thanh tịnh viên mãn hiện khắp ở mười phương, lúc bấy giờ tạm gọi là “Phật”.

 

9. Viên Giác Hiện thì các pháp (căn, trần, thức) đều thanh tịnh

-Này thiện nam! Vì tánh Viên Giác thanh tịnh sáng suốt đã hiện ra nên “tâm” thanh tịnh: do Tâm thanh tịnh nên “6 thức” thanh tịnh; do 6 Thức thanh tịnh nên “6 căn” thanh tịnh; do 6 căn thanh tịnh nên “6 trần” thanh tịnh; do 6 trần thanh tịnh nên 4 đại, 12 xứ, 18 giới và 25 loài đều thanh tịnh.

 

LƯỢC GIẢI

Đại ý đoạn này nói: vì tánh Viên giác thanh tịnh đã xuất hiện, nên các pháp thuộcv ề thế gian là Căn, Trần, Thức cũng đều thanh tịnh. Dụ như trong rừng cây y lan (loại cây hồi), một phen gỗ chiên đàn xuất hiện, thì cả rừng đều thơm ngát.

Sáu thức: Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt thức, Thân thứcÝ thức

Sáu căn: Nhãn căn, Nhĩ căn, Tỷ căn, Thiệt căn, Thân cănÝ căn.

Sáu trần: Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc và Pháp.

Bốn đại: Địa, Thủy, Hỏa và Phong.

Mười hai xứ: SÁu căn và sáu trần

Mười tám giới: 6 Căn, 6 Trần và 6 Thức.

25 loài: Cõi Dục có 14 loái, là bốn châu (Đông Thắng thần châu, Nam Thiêm bộ châu, Tây Ngưu hóa châu, Bắc Cu lô châu); bốn ác thú (Tu la, Địa ngục, ngạ quỷ, Súc sanh( và sáu cõi Dục (1. Tứ Thiên vương, 2. Đao lợi, 3. Dạ ma, 4. Đâu suất, 5. Hóa lạc, 6. Tha hóa, tự tại) Cõi Sắc có 7 loài, là bốn cõi Thiền (từ Sơ thiền đến Tứ thiền) cõi Phạm vương, cõi vô tướngNgũ tịnh cư. Cõi Vô sắc có bốn: 1. Không Vô biên xứ, 2. Thức vô biên xứ, 3. Vô sở hữu xứ, 4. Phi phi tưởng xứ.

 

*

-Này Thiện Nam! Vì các pháp thế gian thanh tịnh, nên các pháp xuất thế gian như: 10 lực, 4 món Vô úy, 4 món Vô ngại trí, 18 pháp Bất cọng, 37 phẩm Trợ đạo và 84000 pháp môn Đà la ni, tất cả đều thanh tịnh.

 

LƯỢC GIẢI

Đại ý đoạn này nói: Một pháp đã thanh tịnh, nên tất cả các pháp đều thanh tịnh, vì tất cả đều đồng tánh Viên Giác. Thí như một cục phèn bỏ vào thau nước, một chỗ trong thì cả thau đều trong.

Đoạn trên nói các pháp Thế gian thanh tịnh. Đoạn này nói các pháp Xuất thế gian cũng thanh tịnh.

Mười lực: 1. Tri giác xứ phi xứ trí lực. 2. Tri tam thế nghiệp báo trí lực; 3. Tri chư thiền giải thoát tam muội trí lực; 4. Tri chưa căn thẳng, liệt trí lực; 5. Trí chủng chủng giải trí lực; 6. Trí chủng chủng giới trí lực; 7. Trí nhứt thế chi sở đạo trí lực; 8. Trí thiên nhãn vô ngại trí lực; 9. Tri túc mạng vô lậu trí lực; 10. Tri Vĩnh đoạn tập khí trí lực.

Bốn món Vô úy: 1. Nhứt thế trí vô sở úy; 2. Lậu tận vô sở úy; 3. Thuyết chướng đạo vô sở úy; 4. Thuyết tận khổ đạo vô sở úy.

Bốn món Vô ngại trí: 1. Pháp vô ngại trí; 2. Nghĩa vô ngại trí; 3. Từ vô ngại trí; 4. Lạc thuyết vô ngại trí.

Mười tám pháp Bất cọng: 1. Thân vô thất; 2. Khẩu vô thất; 3. Niệm vô thất; 4. Vô dị tưởng; 5. Vô bất định tâm; 6. Vô bất tri dĩ; 7. Dục vô diệt; 8. Tinh tấn vô diệt; 9. Niệm vô diệt; 10. Huệ vô diệt; 11. Giải thaót vô diệt; 12. Giải thoát tri kiến vô diệt; 13. Nhứt thế thân nghiệp tùng trí huệ hành; 14. Nhứt thế khẩu nghiệp tùng trí huệ hành; 15. Nhứt thế ý nghiệp tùng trí huệ hành; 16. Trí huệ tri quá khứ thế vô ngại; 17. Trí huệ tri vị lai thế vô ngại; 18. Trí huệ tri hiện tại thế vô ngại.

Ba mươi bảy Phẩm trợ đạo (xem Phật Học Phổ Thông, khóa III bài Đạo Đế nói rõ)

Đà La Ni: Tàu dịch là “Tổng trì”. Nghĩa là ở trong mỗi một phápmôn tóm giữ được tất cả Pháp. Do trừ 84000 phiền não mà được 84000 pháp Đà La Ni.

 

*****

 

Này Thiện Nam! Vì các pháp thế gianxuất thế gain đều thanh tịnh, nên các nhân thanh tịnh; do cá nhân đã thanh tịnh nên nhiều cá nhân thanh tịnh, cho đến mười phương chúng sanh đều đặng Viên Giác thanh tịnh.

 

LƯỢC GIẢI

Đoạn này nói Chánh báo chúng sanh thanh tịnh. Vi đã đồng tánh Viên Giác, nên các pháp nói trên đã thanh tịnh, thì thân chúng sanh cũng th anh tịnh. Cũng một ý này, nhưng có kinh lại nói một cách khác: “còn một chúng sanh nào chưa thành Phật thì ta cũng chưa thành Phật”, vì đồng một bản thể vậy.

-Này Thiện Nam! Vì một thế giới đã thanh tịnh, nên nhiều thế giớ cũng thanh tịnh. Vì nhiều thế giới thanh tịnh nên cùng tận 10 phương hư không (không gian) trùm khắp 3 đời (thời gian), tất cả đều thanh tịnh bình đẳng không động.

 

LƯỢC GIẢI

Đoạn này nói Y báo của chúng sanh thanh tịnh. Vì đồng tánh Viên Giác, nên Chánh báo đã thanh tịnh thì Y báo cũng thanh tịnh. Cũng như trong nah2 tối lâu đời, khi đốt lên một ngọn đèn, ánh sáng được xuất hiện, một chỗ từ vừa sáng thì tất cả chỗ trong nhà đều sáng.

 

**

 

10. Vì thấy hiện tượng (các pháp) bình đẳng nên biết bản thể (Viên Giác) bình đẳng

-Này Thiện NamHư không đã bình đẳng không động, nên biết tánh Viên Giác bình đẳng không động, vì bốn đại bình đẳng không động, nên biết tánh Viên Giác bình đẳng không động. Như thế, cho đến 84000 phap1 môn Đà La Ni đều bình đẳng không động, nên biết tánh Viên Giác bình đẳng không động.

 

LƯỢC GIẢI

Từ bản thể là tánh Viên Giác, sanh ra các pháp hiện tượnghư không, bốn đạithiên hình vạn trạng cho đến 84000 pháp Đà La NiHiện tượng dã từ bản thể sanh mà hiện tượng đã bình đẳng không động, cố nhiên bản thể cũng bình đẳng không động.

 

**

 

11. Bản thể (tánh) khắp cả 10 phương, nên hiện tượng khắp cả 10 phương

Này Thiện Nam! vì tánh Viên Giác thanh tịnh không động, viên mãn cùng khắp tất cả, không có bờ bến, nên biết 6 căn, 6 trần, 4 đại, cho đến pháp môn Đà La Ni cũng thanh tịnhviên mãn khắp cả pháp giớ.

Này thiện nam! Vì tánh Viên Giác kia mầu nhiệm viên mãn không hoại, nên bản thể của căn, bản thể của trần, không có một pháp nào hoại diệt và lộn lạo; cho đến pháp môn Đà La Ni, cũng không có hoại diệt và lộn lạo. Thí như trăm ngàn ngọn đèn, đồng đốt trong một căn nhà, ánh sáng của mỗi ngọn đèn tuy đều chiếu khắp cả nhà, nhưng không có lộn lạo hay lấn diệt nhau.

 

LƯỢC GIẢI

Đoạn này có hai phần. Phần trên nói: Vì bản thể là tánh Viên Giác châu biến, nên hiện tượng là các phápu cũng châu biếnĐại ý phần này giống đoạn văn trong kinh Hoa Nghiêm nói về “sự, Lý vô ngại Pháp giới”

Phần dưới nói: Vì bản thể không hoại diệt nên tất cả các pháp không có một pháp nào hoại diệt. Thí như trăm ngàn ngọn đèn chiếu trong một nhà, không có lộn lạo và hoại diệt nhau. ý đoạn này giống với dodạn văn trong Kinh Hoa Nghiêm nói về “Sự, Sự vô ngại Pháp giớ”. Trong kinh Pháp Hoa chép: “Thị pháp trụ pháp vị, thế gian tướng thường trụ” (Pháp nào an trụ địa vị pháp ấy. Thế gian tướng là thường trụ tướng). Và Kinh Lăng nghiêm có chép” Tứ đại châu biến không có hoại diệt và tạp loạn lẫn nhau”.

 

***

 

12. Vì chứng được viên giá nên thấy các pháp bình đẳng

-Này Thiện nam! Vì các Bồ tát thành tựu được tánh Viên Giác rồi, nên không sợ pháp hữu vi ràng buộc, không cầu pháp vô vi giải thoát, không nhàm chán sanh tử, không ưa thích Niết Bàn, không kính người trì giới, không ghét người phạm giớ, không tôn trọng kẻ tu lâu, chẳng khin người mới học. Tại sao thế? -Vì tất cả cá pháp đều là Viên Giác vậy.

Thí như con mắt xem thấy các cảnh vật hiện tiền, cái “thấy” này trùm khắp tất cả, không thương, ghét. Tại sao thế? Vì cái “thấy” này chỉ có một thể, nên không có thương, ghét vậy.

 

LƯỢC GIẢI

Vì tất cả các pháp đã đồng một tánh Viên Giác, nên Bồ tát bình đẳng: không thương không ghét, không khinh không trọng, không sợ sanh tử, chẳng cầu Niết bàn. Đoạn này lý rất cao thâm, chúng ta không nên đem phàm tìnhphán đoán.

Ông Thường BẤt Khinh Bồ tát nói: “Tôi không dám khinh các Ngài, các Ngài sẽ thành Phật vì các NGài đều có tánh Phật” (Khả năng thành Phật). Và trong kinh Tứ thập Nhị chương chép . “Cúng dường cho nhiều đức Phật, công đức không bằng cúng dường cho người Vô niệm, vô trụ, vô tu, vô chứng”. Đại ý các đoạn trên đều nói đến thể tánh bình đẳng này.

 

**

 

13.Có tu và có chứng mà thật ra không tu và không chứng

-Này Thiện nam! Các Bồ tát hiện tạichúng sanh đời sau, tuy tu tập Tâm này (Viên Giác) mà được thành tựu (quả Phật) rồi, nhưng thực ra thì không tu và cũng không thành, vì tánh Viên Giác vừa tịch diệt vừa phổ chiếu tất cả, đối với Phật hay chúng sanh, không hai không khác.

 

LƯỢC GIẢI

Phật đã dạy “Nhứt thế chúng sanh giai hữu Phật Tánh” Nghĩa là: Tất cả chúng sanh đều có Tánh Phật (Viên Giác). Song chúng sanh vì bị mây vô minh che phủ mặt trang Viên Giác (Phật) của mình, nên in tuồng có mê; bởi in tuồng có mê nên cũng in tuồng có Tu và CHứng. Đến khi mây vô minh tan hết, thì mặt trăng Viên Giác hiện raMặt trăng này đâu phải bấy giờ mới có, và cũng không phải do dụng công tu hành mới thành, vì nó có từ vô thỉ đến giờ. Bởi thế nên nói “In tuồng có Tu và có Chứng” Trong kinh Tứ Thập Nhị Chương, cũng với ý này, Phật đã dạy: “Niệm đến chỗ không niệm mới là chơn niệm, làm đến chỗ không làm mới là thật làm, nói đến chỗ không nói mới là thật nói, tu đến chỗ không tu mới là tu, chứng đến chỗ không chứng mới là thật chứng...”

Tuy biết như vậy, nhưng lúc đầu tiên hạ thủ công phu, phải có Tu có Chứng, rồi mới có thể đạt đến chỗ rốt ráoVô tu Vô chứng. Cũng như ông thầy giáo muốn cho cả lớp học được yên lặng thì phải dùng tiếng động là gõ thước trên bảng. KHi học trò yên lặng thì tiếng gõ bảng hết, lúc bấy giờ mới đổi lại cảnh yên tịnh được.

Cũng vì ngộ lý này, nên người xưa có làm bài thơ rằng:

Bách xích can đầu trực hạ thủy

Nhứt ba tài động vạn ba tùy

Dạ tịnh thủy hàn ngư bất thực,

Mãn thuyền không tải nguyệt minh qui.

Ý nghĩa bài thơ này, câu thứ nhất nói: “Nhợ 100 thước trên đầu cần câu, thả thẳng xuống mặt nước”. Câu thứ hai nói: “Một lượn sóng vừa gợn (động) thì liền có muôn gnàn lượn sóng nhấp nhô nổi theo” . Hai câu này ý nói: Khi hạ thủ công phu, lúc đầu tiên thuộc về hữu tướng Tu, còn phải dụng công có Tu có Chứng.

Câu thứ ba nói: “Đến khuya các tiếng động hết, một bầu tịch mịch thanh vắng mặt nước đong lạnh, bằng phẳng như tờ; cá cũng không ăn mồi”. Ý nói hành giả lúc bấy giờ đã đi sâu vào chỗ “TÂm cảnh như như, ngả pháp đều không” thuộc về Vô tướng tu. Vô cung dung hạnh.

Câu thứ tư nói: “Chỉ có thuyền trống chở ánh sáng mặt trăng về...” Đại ý câu này nói: “Không tâm tải đạo” (tâm trống không, chứa đạo). Hành giả lúc bấy giờ, tâm thể sáng su6ót hiện khắp cả 10 phương (viên giác); in tuồng có chứng có đắc... mà thật ra không chứng và không đắc.

 

*****

 

14. Sanh tửniết bàn đều như mộng, vì chúng sanh vốn đã thành Phật

Các thế giới của chư Phật, nhiều như số cát sông Hằng, đều ở trong tánh “Viên Giác” này. Cũgn như hoa đốm ở trong hư không, mặc tình lăng xăng khởi lên và lăng xăng diệt mất. Nó không phải “tức” là tánh Viên Giác, mà cũng không phải “ly” tánh Viên giác; không triền phượcgiải thoát. Bởi thế nên biết “SAnh tử và Niết bàn” cũng đều như giấc mộng hôm qua, vì chúng sanh vốn đã thành Phật từ xưa đến giờ.

 

LƯỢC GIẢI

Đại ý đoạn này nói: Tánh Viên Giác thanh tịnh vắng lặng như hư không nên mặc tinh cho các pháp lăng xăng khởi diệt như hoa đốm.

Niết bàn là đối với sanh tửmà có, trong tánh VIên Giác, Sanh tử đã không, cho nên Neiét bàn cũng như mộng.

Đứng về phương diện lý tánh mà luận, thì tất cả chúng sanh đều sẵn có tính Phật (Viên Giác) nên nói: “chúng sanh đã thành Phật từ xưa đến nay” . Song chúng sanh vì bị mây vô minh che mờ, nên mặt trăng Phật (Viên Giác) của mình chẳng hiện. Đến khi được gío Bát Nhã thổi tan mây vô minh rồi, thì trăng Viên Giác (Phật) của minh tự hiện.

Cũng vì ngộ lý này, nên cổ nhơn có làm bài thơ rằng:

Tòng hạ vấn đồng tử...

Ngôn: Sư thê được khứ,

Chỉ tại thử sơn trung

Vân thâm bất kiến xứ.

Dịch nghĩa: Dưới cây tòng, hỏi Đồng tử... Đồng thử thưa rằng: “Thầy đi hái thuốc, chỉ ở trong núi này thôi, nhưng vì mây đen nên chẳng thấy được”

Trong bài thơ này, tác giả mượn người khách hỏi Đồng tử để nói về lý đạo.

Đại ý: Chúng sanh đi tìm Đạo. Thật ra Đạo (Phật) không đâu xa, chỉ ở trước mắt. Nhưng vì chúng sanh bị mây vô minh che mờ, nên chẳng thấy được Đạo (Phật).

Trong kinh có câu: “Tâm, Phật, chúng sanh, tam vô sai biệt”: TÂm, Phật và chúng sanh cả ba không sai khác. Hay là câu: “Phật pháp tại thế gian, bất ly thế gian giác”: Phật pháp tại thế gian, giác ngộ không rời thế gian; cũng là chỉ cho ý này. Bởi chúng sanh và Phật đồng một thể tánh Viên giác, nên Phật với chúng sanh không hai, triền phượcgiải thoát không khá,c sanh tử với Niết bàn như mộng.

 

*******

 

15.Các Pháp bình đẳng

-Này Thiện nam! Phải biết sanht ử và Niết bàn đều như giấc mộng hôm qua, cho nên không có sanh diệt và cũng không có khứ lai. Ở nơi quả vị sở chứng, không có “được’ và “mất” hay “thủ” và “xả”. ở nơi người năng chứng cũng không có “tạo tác” và đình chỉ” hay “sanh (nhậm) và “diệt”.

Trong tánh Viên Giác, tất cả các pháp đều bình đẳng, không có hoại diệtRốt ráo không có người năng chứng và quả sở chứng.

 

LƯỢC GIẢI

Trong kinh nói: “chư pháp tùng bổn lai, thường tự tịch diệt tướng”. Nghĩa là: Các pháp từ xưa đến nay, tướng nó thường vắng lặng. Bởi đồng tánh Viên Giác, nên tất cả các pháp bình đẳng, không sanh diệt, không khứ lai, không đắc thất, không thủ xả, không làm, không thôi, không sanh, không diệt, rốt ráo không có người năng chứng và quả sở chứng, vì tất cả đều là tánh Viên Giác vậy.

 

16.TÓM LẠI

Này Thiện Nam! Các vị Bồ tát kia phải y lời ta dạy trên mà suy nghĩ như vậy, dùng phương tiện như vậy, y theo lớp langtuần tự tu hành như vậy, phải cầu pháp như vậy và khai ngộ như vậy, mới khỏi mê muội.

 

LƯỢC GIẢI

Nguyên trước Ngài Phổ Nhãn hỏi Phật: “Phải suy nghĩ làm sao? Lập phương tiện thế nào? Và thứ lớp tu hành ra sao? v.v...

Phật đã giải thích rành rẽ rồi, nên đoạn này Phật dạy: “Phải suy nghĩ như vậy, dùng phương tiện như vậy v.v... thì mới khỏi mê muộingộ nhập được tánh Viên Giác”

 

*

 

17.Phật nói bài kệ tóm lại các nghĩa trên

Khi ấy Đức Thế Tôn muốn tóm lại các nghĩa trên, nên nói bài kệ rằng:

Phổ Nhãn! Ông phải biết:

Thân, Tâm của chúng sanh

Tất cả đều như huyễn:

Thân này thuộc bốn đại

Thân này trả sáu trần;

Bốn đại tan rã rồi,

Cái gì gọi là “TA”?

Tuần tự tu như vậy,

Tất cả đều thanh tịnh.

Viên Giác khắp Pháp giớ,

Không làm, thôi, sanh, diệt

Không năng chứng, sở chứng:

Tất cả thế giới Phật

Như hoa đốm hư không.

Ba đời đều bình đẳng

Rốt ráo không qua lại

Bồ tất mới phát tâm,

chúng sanh đời sau,

Muốn cầu nhập Phật đạo

Phải như thế tu hành.

 

LƯỢC GIẢI

Đại ý bài kệ này là tóm lại các nghĩa trên.

Phật dạy quán sát Thân này và Tâm này đều như huyễn, không có thật “Ngã). Cứ như thế mà tu hành thì lần lần sẽ được thanh tịnh. lúc bấy giờ tánh Viên Giác hiện ra khắp cả Pháp giới, không còn “làm” hay “thôi”, “sanh” hay “diệt”, và cũng không có “năng chứng” và “sở chứng”. Các thế giới nhiều như số cát Sông Hằng, đều ở trong tánh Viên Giác, mặc tình nó sanh diệt như hoa đốm giữa hư khôngBa đời đều bình đẳng, rốt ráo không qua lại. Các Bồ tátchúng sanh đời sau, phải như thế tu hành, mới vào được Đạo Phật.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29912)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27205)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21799)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22262)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23644)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20467)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20074)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21962)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24782)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 19019)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24795)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 31013)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 24016)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27794)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26559)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21382)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23251)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38182)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18818)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18452)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 20011)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19071)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23209)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23918)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22846)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22957)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29622)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20657)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18740)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15870)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18878)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19709)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20190)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19975)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18147)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22984)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34212)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16445)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16946)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39301)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26121)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20132)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18880)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24100)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29179)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22928)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30995)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21045)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26889)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20707)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26289)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23360)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19841)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24705)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30056)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20248)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20437)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15165)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15850)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23933)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant