Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lời Nói Đầu- The Reverend Yamada Etai

25 Tháng Tám 201000:00(Xem: 12108)
Lời Nói Đầu- The Reverend Yamada Etai

NGHIÊN CỨUPHIÊN DỊCH ĐẠI PHẨM THỨ NHẤT
MA HA CHỈ QUÁN
PHÁP MÔN VIÊN ĐỐN

(The Great Calming and Contemplation)
THIÊN THAI TRÍ KHẢI

Neal Donner & Daniel B. Stevenson biên soạn - Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm dịch
Nhà xuất bản Phương Đông TP. HCM 2009

Phẩm Thứ Nhất
MA HA CHỈ QUÁN

Lời nói đầu

Phật giáo là một giáo pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, là người sống ở miền Bắc Ấn Độ khoảng hơn hai ngàn năm trăm năm trước. Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ. Theo Phật Giáo, tất cả mọi người đều có thể trở thành Phật hoặc ‘bậc giác ngộ’ như Đức Thích Ca. Nỗi mong ngóng của tôi với những người đã hướng về con đường tu trì Phật pháp đều sẽ thành Phật. Khi thế giới nầy trở thành Phật giới hoặc Bồ tát giới, chúng sinh hướng về Phật quả, thì niềm hy vọng sẽ nở bừng an lạc.

Phật Giáo bao gồm Phật phápPhật đạo. Phật pháp diễn đạt tánh tướng giác ngộ của Phật. Chúng ta đã tự bao giờ đi trong sự chiếm ngự dềnh dàng của bản ngã thô thiển, và vì thế, mất dấu nhân duyên. Cũng vì vậy, chúng ta luôn ở trong trang thái xung đột với tha nhânthế giới chung quanh, phải chịu đựng những dòng đời khốn khổ vô ích. Pháp Phật đưa chúng ta về chỗ không có nỗi khổ, thấy được Bồ Đề an lạc bằng lối vượt thoát sự xâm chiếm của vô minh qua ngã, an trụ trong vô ngã. Đường Phật cung hiến những chỉ dẩn tu tập về thân và tâm để đến được với chân tánhtự do, vượt qua những phiền não cảm nhận từ một cái ngã như huyễn. Phát huy trí tuệtỉnh thức đối với chân tánh tức Phật pháp. Đến được với thực chứng trong ta và sống tùy thuận thực tại tức Phật đạo.

Maha Chỉ Quán (Moho Chih-kuan) đã được thuyết ra bởi vị sư Trung Hoa là Trí Khải (538-597), cũng là vị Tổ sư của tông Thiên Thai, và được một môn đồ là Kuan-ting (Quán Đảnh) (561-632) ghi lại. Đây là một bảng chỉ đường thâm sâu làm thế nào để viên dung hai mặt của Phật giáo - tức Phật phápPhật đạo. Trọng tâm của tập sách nầy quy về khái niệm ‘chỉ và quán, tịch và chiếu’ (chih-kuan ming ching) như một phương pháp hành trì (1). Khái niệm nầy đã được xưng tụng trong hầu hết những gì liên quan đến Phật giáo ở Trung Hoa. Tập sách được dịch sang Nhật ngữ khi Saicho hoặc Dengyo Daishi (Tối Trừng, 766-822), đã thành lập Thiên Thai Tông trên đỉnh Tỉ Duệ (Mount Hiei), và trở thành nền tảng của Phật giáo Nhật Bản.

Phật phápPhật đạo xiển dương giáo lýthực hành. Khi hai mặt nầy trọn vẹn đi vào nhau, tất cả khổ nãonghiệp chướng sẽ bị tận

diệt, và Phật trí bình đẳng với chư Phật sẽ hiển lộ. Tác phẩm MaHa Chỉ Quán đưa đường về với Phật tánh, và làm thế nào vạn pháp có trong một tâm, khả dĩ tuyệt đối tự do. MaHa Chỉ Quán nói đến thiền tọa như một phương tiện chính để tu tập chỉ và quán, tịch và chiếu. Trong tất cả những phương pháp thiền định hoặc trụ tâm vào thực tại, thì phương pháp tọa thiền dễ thực hành nhất. Vì lý do nầy, nói qua những phương pháp khác nhau trong việc tu tập thiền định được đề cập trong những bản kinh, thì MaHa Chỉ Quán cho thấy một điểm độc đáo là làm thế nào cuộc hành trình đi về chỗ chứng ngộ có thể đến được với một lần ngồi xuống trong thiền định. Sự hướng dẩn nầy là một phần quan trọng và nổi bật của tác phẩm.

Trí Khải tin rằng những giáo pháp được Thế Tôn thuyết ra, và đã được tồn trữ trong truyền thống Phật giáo chỉ là những phương tiện (upaya). Điều nầy nói lên rằng bởi vì thực tại Bồ Đề bất khả tư nghị khó được lãnh hội trực tiếp, Thế Tôn dùng những phương tiện khế hợp với căn tánh chúng sinh, và dần đưa họ về mục tiêu tối hậu. Thuyết giảng bộ kinh Pháp Hoa vào những ngày cuối đời, Đức Thích Ca Mâu Ni phối hợp tất cả những pháp phương tiện, phân tích, và tiết lộ mục đích sau cùng. Như vậy, kinh Pháp Hoa được thuyết ra như một giáo lý vi diệu đưa đường cho tất cả chúng sinh.

Với Trí Khải, chính bộ kinh Pháp Hoayếu chỉ của Phật pháp, là giáo pháp vô biên thành tựu tất cả những bản kinh khác, hứa hẹn một đất tâm tĩnh lặng và là nỗi hy vọng của tất cả con người trong tất cả mọi thời. Đặt căn bản trên lòng tin nầy, Trí Khải thuyết giảng MaHa Chỉ Quán, được trình bày như một phương pháp thực hành, gồm thu cái tinh túy của bộ kinh Pháp Hoa. Nói cách khác, MaHa Chỉ Quán là bảng chỉ đường đưa giáo lý tối thượng của kinh Pháp Hoa vào mặt thực hành- là sự hướng dẩn để nhận chân được tinh thần của bộ kinh.

Giáo lý tuyệt diệu của kinh Pháp Hoa đã được trình bày trong hai tác phẩm khác của Trí Khải là ‘Pháp Hoa Huyền Nghĩa’ diễn đạt sự thâm sâu của bộ kinh Pháp Hoa, và ‘Pháp Hoa Văn Cú’ là bảng chú giải từng câu trong toàn nội dung bản kinh. Ba tác phẩm nầy, được gọi là ‘Thiên Thai Tam Đại Bộ’- cùng chung chú giải yếu chỉ của Phật phápPhật đạo, giáo và hành, như được nói đến trong kinh Pháp Hoa, và như cái hiểu của Trí Khải về Phật pháp, và truyền thống Thiên Thai Tông.

MaHa Chỉ Quán gồm có mười chương, được bố cục qua năm đề mục chính : (1) phát đại tâm, (2) tu đại hạnh, (3) hiển đại quả, (4) xé lưới nghi (sự nghi hoặc về những phân chia của Phật pháp), và (5) quy đại xứ. Chương thứ nhất đến Chương thứ năm liên quan đến ý tưởng giác ngộ- cung hiến một sơ đồ về Chỉ và Quán, xác định văn tự Chỉ và Quán, thuyết giảng khái niệm về Chỉ và Quán, trình bày làm cách nào toàn thể phương pháp thực hành của Phật giáo được hoàn tất trong một phương pháp Chỉ và Quán, và như thế, cho hành giả một cái thấy rõ ràng về phương pháp Chỉ và Quán, và làm bừng dậy trong hành giả lòng mong muốn thực hành. Lý do là vì hành giả phải phát sinh ý tưởng giác ngộ một cách chính chắn thì mới có thể hành trì Phật pháp một cách hữu hiệu. Chương thứ sáu và thứ bảy của MaHa Chỉ Quán luận về chi tiết đặc thù qua khía cạnh thực hành. Chương thứ sáu nói về những chuẩn bị cụ thể và những thuận duyên cần thiết để thành tựu pháp môn Chỉ và Quán. Chương thứ bảy, là chương dài nhất, diễn tả chi tiết những kỷ thuật thích ứng về Chỉ và Quán. Tiếc thay, Trí Khải đã không kịp thuyết giảng ba chương và năm đề mục sau cùng trong toàn bộ mười chương như dự định.

Chỉ và Quán trình bày những phương pháp quy chế thích hợp nhất để đến được với sự toàn thiện của con người. Chỉ (chih) đưa tâm về với định và an trú trong tánh giác.
Quán (kuan) liên quan đến sự dùng tâm giác ngộ nầy như một nền tảng quán chiếu chân tánh đồng nhất trong vạn pháp. Đây là mặt thực hành, cùng lúc hội tụ ‘tịch’ của định đưa tâm vào chỗ vô ngã, và ‘chiếu’ của tuệ, thấy được vạn pháp phơi trải như nó là, hiển lộ giá trị chân thực. Khái niệm căn bản nầy đã từng được thuyết ra qua những bản kinh và luận thuở lâu xưa, nhưng sở dĩ MaHa Chỉ Quán được tán tụngtác phẩm nầy là một bảng chỉ đường thâm sâuchi tiết, có giá trị thực hành.

Có ba cách thức hành trì Chỉ và Quán : Tiệm, Bất Định, và Viên Đốn. Pháp môn Tiệm dành cho những hành giảcăn cơ thấp kém, là những người đi từ cạn đến sâu. Pháp môn Bất Định dành cho những hành giả thực tập nhiều đường lối khác nhau, tùy thuộc vào căn cơhoàn cảnh chung quanh. Pháp môn Viên Đốn là đỉnh cao, viết ra cho những người có căn tánh sắc bén. Qua lối tu tập nầy, hành giả phát huy được định hạnh bằng con đường vào thẳng chân tánh ngay từ điểm đầu tiên. Tất cả ba phương thức đều là Phật giáo Đại thừa, và đưa đến Bồ Đề, nhưng MaHa Chỉ Quán chỉ nói tổng quát hai phương thức kia, và đặc biệt nhấn mạnh vào pháp môn Viên Đốn. Vì vậy, tác phẩm có tựa đề là ‘Đại (MaHa) Chỉ Quán’. Trái tim của giáo pháp MaHa Chỉ Quán về mặt viên đốn được tìm thấy qua những lập luận về bốn trạng thái thiền định trong chương thứ nhất (phần dàn bài, theo sau là phần dịch), hai mươi lăm bước đầu trong chương thứ sáu (phần chuẩn bị khế hợp), và mười phương cách thực hành chỉ và quán trong chương thứ bảy (Chánh Quán). Tác phẩm MaHa Chỉ Quán được tán tụng như một phương thức thâm viễn, qua đó ba pháp môn đưa yếu tính hành trì Phật pháp vào hệ thống.

Tất cả mọi người đều có sẳn phẩm hạnh cao quý, bình đẳng. Nếu, qua cái hiểu chân thực nầy, con người có thể nhận ra rằng họ là những yếu tố không thể bị bứng gốc rễ từ một môi trường đơn thuần, và nếu những cá nhân tự giác nầy sáng tạo một cảnh giới của ngã và nhân có thể giúp đỡ lẩn nhau, thì ngay ở điểm đầu tiên, sự cân bằng giữa cá nhânxã hội sẽ xuất hiện, đưa đến hạnh phúc và hòa bình chân chính cho tất cả mọi người. Trong sự chuyển mình của những khám phá khoa học, tuy nhiên, con người về sau phô trương chiều hướng chú trọng kết quả. Khi sự xâm chiếm của kết quả nầy hóa thành khối duy vật chất khổng lồ, thì liền đó là cơ nguy có thể làm tan tành sự gắn bó giữa người với người. Điều quan trọng là phẩm hạnh của con người như một cá nhân đứng giữa tâm điểm của xã hội. Nếu chúng ta không có được một xã hội, trong đó, ngã và nhân cùng tương hữu một cách thỏa đáng, thì hòa bình và phước hạnh chân thực sẽ không bao giờ hiện ra được. Chúng ta phải nắm bắt được thực tại trên nền tảng tương giao, tùy thuận của nhân và duyên, và sáng tạo một xã hội vô ngã, là những cá nhân nghĩ và làm một cách tự nhiên hướng về người khác. Vì thế, đã đến lúc con người khắp mọi nơi trên thế giới cần hiểu được MaHa Chỉ Quán và thực sự hành trì để đến được chỗ tự làm cho chính mình trở nên toàn vẹn. Thực vậy, bản dịch chương thứ nhất qua Anh ngữ nầy có thể quay lại trở nên một bảng đưa đường về với phước hạnh hy hữu nhất của chúng ta dành cho con người. Có được sự cảm nhận sâu thẳm trong đường lối phiên dịch tác phẩm Hoa ngữ quan trọng nầy, với tất cả những ý nghĩa khôn cùng, tôi muốn gởi lời cảm tạ đến những người đã thực hiện.

The Reverend Yamada Etai

Bài tựa của Quán Đảnh (Kuan-ting) viết về MaHa Chỉ Quán bắt đầu với bốn chữ nầy. Tựa đề nầy đã trở thành yếu chỉ của tác phẩm và là phương pháp tu trì của Tông Thiên Thai.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19708)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23968)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41222)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19702)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 24000)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21748)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23314)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27510)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26578)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29320)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33201)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20203)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25784)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20919)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31326)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38584)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21448)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44266)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29835)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42223)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22144)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45771)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32119)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23962)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24394)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29285)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33926)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27685)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32138)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21068)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28857)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21588)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28069)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22075)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21443)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19504)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19471)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19838)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19259)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29196)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20627)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28305)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23651)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33194)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31845)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21379)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39633)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21557)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19382)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26404)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24833)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21760)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22397)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29136)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22561)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20471)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23525)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21241)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35330)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24548)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant