Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lời Nói Đầu

28 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 10432)
Lời Nói Đầu


KHẢO NGHIỆM DUY THỨC HỌC

TÂM LÝ HỌC THỰC NGHIỆM
Thích Thắng Hoan

LỜI NÓI ĐẦU

Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động, có giá trị thời giankhông gian trong mọi lãnh vực xây dựng con người tiến bộ cũng như kiến tạo xã hội văn minh theo chiều hướng tâm linh. Ngoài sự thỏa mãn phần nào vấn đề thắc mắc của lý trí. Duy Thức Học nhằm mục đích hướng dẫn con người cải tạo bản thânbiến đổi hoàn cảnh theo nhu cầu của Duy Thức để họ sống được hạnh phúc an vui chân thật.

Duy Thức Học dựa trên tâm lý để khai triển tận cùng về nguyên lý cấu tạo vũ trụnhân sinh theo chủ thuyết Nhân Duyên của đức Phật Thích Ca chủ trương. Chủ thuyết Nhân Duyên chính đức Phật Thích Ca đã tuyên ngôn đầu tiên nơi vườn Lộc Uyển để độ năm anh em ông Kiều Trần Như sau khi thành đạo nơi cội Bồ Đề. Căn cứ theo chủ thuyết Nhân Duyên, Duy Thức Học phân tích tính chất, giá trị, ý nghĩavai trò của mỗi Tâm Thức, cũng như tìm hiểu thấu đáo sự quan hệ lẫn nhau giữa các Biểu Thức (sáu Tâm Thức ở trước), Tiềm Thức (Thức Mạt Na thứ bảy) và Siêu Thức (Thức Alaya thứ tám) trong mọi lãnh vực sinh hoạt, hỗ trợ nhận thức cũng như sự sáng tạo vũ trụnhân sinh. Tư tưởng này, đức Phật Thích Ca đặc biệt chỉ truyền lại cho Bồ Tát Di Lặc (Maitreya), biệt hiệu A Dật Đa (Ajita), là bậc đại trí thức đương thời. Khoảng 900 năm sau Phật nhập diệt, có hai bậc đại luận sư là Ngài Vô Trước (Asanga) và Ngài Thế Thân (Vasubandhu) kế thừa Bồ Tát Di Lặc phát huy Duy Thức Học thành một hệ thống triết học siêu đẳng, vượt hẳn tất cả triết học cổ kim, đông tây, có khả năng định hướng đích thực cho tư tưởng con người và cũng là ý sống thiết yếu của con người trên lãnh vực thăng hoa. Do đó, Duy Thức Học được gọi là Tâm Lý Học Thực Nghiệm.

Ở vào thế kỷ 20 này, Duy Thức Học cũng có thể là nền tảng căn bản cho Nguyên Tử Học, nếu như các nhà Nguyên Tử không có thái độ thành kiếnquan tâm nghiên cứu đến một cách vô tư. Bởi vì Chủng Tử Học của Duy Thức Học cũng giống như Nguyên Tử Học của Khoa Học hiện đại.

Đến thế kỷ thứ VII Tây Lịch, Ngài Huyền Trang đời Đường, sau khi tốt nghiệp tại Viện Đại Học Nalanda ở Ấn Độ, trở về nước cổ võ Duy Thức Học, gây ảnh hưởng rất lớn trong giới Trí Thức khắp Trung Hoa. Tư tưởng Duy Thức Học do Ngài chủ trương tạo tiếng vang một thời ở Trung Hoa và lập thành một tông phái lớn trong mười tông phái, gọi là Pháp Tướng Tông. Về sau, tư tưởng môn học này được tràn lan trên thế giới.

Riêng ở Việt Nam, Duy Thức Học cũng được phổ biến từ lâu trong hàng ngũ Phật Giáo và giáo sư dạy về môn học này cũng rất nhiều, nhưng hầu như các vị ấy chưa tạo được cho Tư Tưởng Duy Thứcmột thế đứng khả dĩ vững vàng trong hàng ngũ Trí Thức Việt Nam, nghĩa là những giáo sư dạy về môn học này không lột trần được ý sống của Duy Thức trong con người và trong vũ trụ của loài người, mặc dù Duy Thức Học lấy con ngườivũ trụ của loài người làm trung tâm khảo sát. Dẫu rằng có một vài minh sư như: Thiện Hoa, Thạc Đức, Nhất Hạnh, Tuệ Nhuận v.v... đã làm sống dậy một thời Duy Thức Học trong giới trí thức Việt Nam bằng phương pháp nhận thức khoa học thực nghiệm. Rất tiếc một vài con én không đem lại mùa xuân như Ngài Huyền Trang đời Đường.

Ngày nay, Phật Tử Việt Nam hầu như bị giao động đức tin bởi một luồng tư tưởng mới của nền văn minh khoa học cơ giới cực thịnh. Nhất là thế hệ Thanh Niên Phật Tử, lớp trẻ trí thức này rất ngỡ ngàng trước vấn đề giữa Khoa Học và Phật Giáo, giữa học thuyết Duy VậtDuy Tâm mà trên thực tế, lớp trẻ này rất cần có một học thuyết chân thật để làm phương châm lý tưởng cho cuộc sống chân chính, làm cẩm nang cho việc xây dựng một xã hội hòa bình an lạc.

Để minh định tư tưởng Phật Giáo đối với cao tràn văn minh khoa học cơ giới đang lên, tôi cấp tốc mở khóa Duy Thức Học hy vọng định hướng đức tin cho Phật Tử Việt Nam, nhất là Sinh Viên Phật Tử hiện đang đứng trước ống kính muôn hoa tư tưởng xuất hiện. Tôi không dám cao vọng lột trần được tinh thần Phật Giáo qua Duy Thức Học mà ở đây, điều duy nhất tôi chỉ hy vọngcủng cố đức tin trong hàng ngũ trí thức Phật Tử đối với Phật Giáo hiện đại. Sau những khóa học Duy Thức, hơn 200 sinh viên trí thức tham dự, trong đó đa số yêu cầu tôi phổ biến tài liệu khóa học này để anh chị em nương theo đó nghiên cứu Phật Giáo. Tôi đồng ý góp nhặt lại đóng thành sách với nhan đề là "KHẢO NGHIỆM DUY THỨC HỌC". Nội dung thiên khảo luận này dựa theo sự phân loại của Duy Thức Phương Tiện Đàm do Đường Đại Viên Cư Sĩ sáng tác và có thêm bớt đôi mục, nhưng trong nội dung này, tôi chia làm hai phần:

1. PHẦN PHÂN TÍCH: là phần mổ xẻ chi ly từng loại một của các pháp để nghiên cứu về tính chất, giá trịý nghĩa của môn Duy Thức Học.

2. PHẦN TỔNG HỢP: là phần giải thích sự hỗ trợ lẫn nhau giữa các loại, giữa các yếu tố trong cộng đồng duyên sanh của vạn pháp hiện khởi.

Biên soạn nội dung quyển Khảo Nghiệm Duy Thức Học này, tôi căn cứ theo quyển "Duy Thức Học" của Thạc Đức và quyển "Nhận Thức Duy Thức Học" của Nhất Hạnh để diễn giải.

Ngoài ra, tôi còn nương theo tinh thần của Ni Sư Phật Oánh trong quyển "Bát Thức Quy Củ Tụng" và quyển "Duy Thức Tam Thập Tụng" của Tuệ Nhuận để phát huy tư tưởng theo đường hướng nhận thức mới. Với tính cách khoa học, tôi chỉ ghi lại đại cương những gì đã khảo nghiệm về Duy Thức Học mà ở đây tôi không thể nào trình bày một cách tường tận toàn bộ những kiểm chứng môn học này trên quyển sách hạn cuộc. Như vậy quyển "Khảo Nghiệm Duy Thức Học" đòi hỏi những đọc giả khi nghiên cứu đến cần phải theo đường lối nói trên phát huy thêm để cụ thể hóa nhận thức.

Phương thức diễn dịch của Duy Thức Họcphương pháp quy nạp, nghĩa là phương pháp trở về nguồn, tức là từ khảo nghiệm về hiện tượng (hiện tượng luận) cho đến khào nghiệm về siêu nhiên (siêu niên luận), từ phân tích sự tướng để hiển bày lý tánh, từ căn cứ nơi vọng tâm để tìm về chân tâm bằng phương pháp kiểm chứng: "Nhứt Thiết Duy Tâm Tạo hay là Vạn Pháp Duy-Thức Biến". Sự cấu tạo vạn pháp trong vũ trụ đã là phức tạp thì tất nhiên sự phân tích vạn pháp của Duy Thức Học nhất định phải chi ly. Duy Thức Học phân tích vạn pháp không thể đơn giản mà có thể hiểu được nghĩa là thâm sâu của chúng. Duy Thức Học khởi đầu từ con người đơn giản làm trung tâm khảo sát để chứng nghiệm cho sự phân tích về nguyên lý cấu tạo vạn pháp trong vũ trụ. Chúng ta hiểu thấu được nguyên lý cấu tạo con người và những gì quan hệ sanh ra con ngườiquán thông được vạn pháp trong vũ trụ. Duy Thức Học chỉ đòi hỏi nơi đọc giả một sự kiên nhẫn lâu bền.

Nhằm mục đích củng cố đức tin của người Phật Tử Việt Nam trước thời đại mới là thời đại khoa học cơ giới cực thịnh, việc làm đây của tôi nhất định có nhiều khuyết điểm và thiếu sót rất lớn đối với nền tư tưởng cao siêu của Duy Thức Học. Tôi ước mongchân thành tiếp nhận được nhiều ý kiến của các bậc cao minh chỉ giáo những lỗi lầm mà quyển sách này thiếu sót để tu chỉnh lại cho hoàn bị hơn, ngõ hầu gieo vào Tâm Trí các bạn đọc một niềm tin yêu Đạo Pháp không mờ phai.

Cẩn Bút

THÍCH THẮNG HOAN

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19866)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
(Xem: 28980)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20695)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19455)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30515)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36441)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33247)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35582)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 20998)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21928)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25268)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25806)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 31274)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
(Xem: 18568)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25151)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23782)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28950)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20876)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31456)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25554)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29730)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22532)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25730)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23295)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25757)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23734)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40618)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23358)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22461)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22105)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23517)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 16972)
Con người khác với loài động vật ở chổ biết đặt vấn đề về giá trị của đời sống; sống như thế nào thì gọi là thiện là tốt hoặc ngược lại là ác là xấu?
(Xem: 23292)
“Nếu Phật tử cố ăn thịt. Tất cả thịt của mọi loài chúng sanh đều không được ăn. Luận về người ăn thịt thì mất lòng đại từ bi, dứt giống Phật tánh...
(Xem: 24321)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41114)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 19007)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20503)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27732)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38133)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 34084)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 36799)
Thiện namthiện nữ, nay các người lãnh thọ giới pháp rồi thì phải tôn kính mà vâng giữ, không được vi phạm giới pháp cần phải phụng trì.
(Xem: 24011)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29206)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60170)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27630)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68757)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24544)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 24508)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22722)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26379)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 26556)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 20829)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20075)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27563)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46457)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 53592)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23619)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21101)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 25597)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29277)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant