Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 1 Ý Nghĩa Và Sự Hình Thành Duy Thức Học

28 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 10640)
Chương 1 Ý Nghĩa Và Sự Hình Thành Duy Thức Học

KHẢO NGHIỆM DUY THỨC HỌC
TÂM LÝ HỌC THỰC NGHIỆM
Thích Thắng Hoan

Chương 1

Ý NGHĨA VÀ SỰ HÌNH THÀNH DUY THỨC HỌC


1/- DUY THỨC:

DUY: tiếng Pali gọi là Mãtratã, nghĩa là CHỈ CÓ.

THỨC: tiếng Pali gọi là Vijnãna (Consciousness), nghĩa là HIỂU BIẾT.

THỨC, ở đây tức là chỉ cho sự HIỂU BIẾT. Sự hiểu biết này chính là một năng lực có khả năng phân biệthiểu biết vạn pháp sai khác qua các cơ quan cảm giác. Thức (Sự hiểu biết) còn là một năng lực có khả năng xây dựng và biến hiện vạn pháp thành nhiều hình tướng không giống nhau với hình thức Nhân Duyên Sanh.

DUY THỨC: (Vijnãnamãtratã) nghĩa là chỉ có sự hiểu biết trên hết và ngoài sự hiểu biết ra không còn sự vật nào khác có thể thay thế được, nên gọi sự hiểu biếtDUY THỨC. Theo Duy Thức, vạn pháp trong vũ trụ gồm cả tâm lývật lý đều là hình tướng giả tạo, không có thể chân thậtchúng nó luôn luôn bị sanh diệt để biến hoại. Sự có mặt của vạn pháp chính là do THỨC kết hợp các yếu tố về vật chất như là: Đất, Nước, Gió, Lửa để tạo nên và sự sanh diệt của vạn pháp cũng là do THỨC tác dụng không ngừng. Chỉ có THỨC mới đủ khả năng tạo dựng và duy trì sự sống còn của vạn pháp, nên gọi vạn pháp đều do DUY THỨC BIẾN.

Chi tiết hơn, phàm bất cứ sự vật nào mỗi khi dùng làm đối tượng (Object) với mắt, tai, mũi, miệng, lưỡi và toàn bộ thân thể của con người thì ngay lúc đó, một năng lực hiểu biết phát xuất từ phía trong con người đó tác dụng để tiếp xúc với sự vật đối tượng trên liền phát sanh cảm giácphân biệt. Cũng do từ sự phân biệt này, những tư tưởng của hiểu biết mới nối tiếp hiện khởi và sáng tạo thêm nhiều sự vật khác không cùng bản chất và không cùng hình tướng. Những sự vật khác không cùng bản chất và không cùng hình tướng được sáng tạo thêm đều do tư tưởng của hiểu biết xây dựng nên để được góp mặt trong vũ trụ cũng gọi là do DUY THỨC BIẾN. Nói cách khác, những sự vật không có thể chất, nghĩa là những sự vật không có sức sống ở trong, do Ý Thức thứ sáu tưởng tượng xây dựng thì cũng thuộc loại giả tạo và cũng không thực thể, đều cũng được gọi là do DUY THỨC BIẾN.

Có thể nói, THỨC là nguồn gốc, là bản thể của tất cả pháp trong vũ trụ. Vạn pháp trong vũ trụ, nếu như không có THỨC này làm điểm tựa căn bản thì nhất định không thể sanh thành và cũng không thể tồn tại một cách độc lập. Minh định rõ hơn, ngoài THỨC ra, không có một sự vật nào tự nó có thể thành hình và tự nó có thể tồn tại một cách độc lập trong thế gian mà không cần đến THỨC. Từ đó cho thấy, sự thành hình, sự sống còn và sự tồn tại sanh mạng của vạn pháp đều do THỨC quyết định, nên gọi là DUY THỨC.

2/- DUY THỨC HỌC (Logic of Knowledge):

Duy Thức Học là một khoa học không ngoài mục đích khảo sát, tìm hiểu vạn pháp trong vũ trụ về phương diện tên gọi (danh xưng), tính chất, thực thể và những hình tướng không giống nhau của những pháp đó để chứng minh rằng, tất cả đều là giả tạo, đều là duyên sanh, đều không thực thể mà trong đó chỉ do Duy Thức làm chủ biến hiện. Nói cách khác, vạn pháp trong vũ trụ đều do Thức đứng ra kết hợp các yếu tố quan hệ, cần thiết để xây dựngchuyển hóa thành hình tướng. Duy Thức nếu như rút lui và không còn sinh hoạt nữa thì vạn pháp sẽ bị hoại diệt theo. Tâm Thức không có hình tướng, chỉ căn cứ nơi các sự vật có hình sắc trong vũ trụ do Tâm Thức kết hợp và biến hiện để xác định thực thể của Tâm Thức. Nhằm kết luận quy về Tâm Thức làm căn bản cho chúng sanh hiện có mặt trong vũ trụ. Duy Thức Học chú trọng đến giá trị tâm linh làm nền tảng để mở bày nguyên lý của vạn pháp.

B.- MỤC ĐÍCH CỦA DUY THỨC HỌC:

Duy Thức Học là một môn học về Tâm, bắt đầu từ nơi Thức để tìm hiểu nguồn gốc của Tâm, nguyên do Tâm chính là thể (Static State) của Thức mà Thức lại là tác dụng (Activity) của Tâm Thể. Tâm Thể nếu như không có thì không có Thức tác dụng. Thế nên các nhà Duy Thức căn cứ trên sự tác dụng của Tâm Thể mà đặt tên cho nó là Thức, nhưng Thức ở đây chính là Thức Tạng (Thức Alaya dịch là Thức Tạng, nghĩa là Thức Chứa). Thức Tạng là một loại Tâm Thứcgiá trị làm căn bản cho sự sanh khởi vũ trụ và nhân sanh, nghĩa là vạn pháploài người trong vũ trụ đều phát sanh từ nơi Tâm Thức này. Đó là lời khẳng định của các nhà Duy Thức.

Duy Thức Học còn nhiệm vụ nữa là tìm hiểu vạn pháploài người trong vũ trụ từ đâu sanh, ai sanh ra chúng và sanh bằng cách nào? Các nhà Duy Thức đi đến kết luận rằng: "VẠN PHÁP ĐỀU DO THỨC BIẾN HOẶC TẤT CẢ ĐỀU DO TÂM TẠO". Để minh chứng cho những lời kết luận trên, chúng ta nên dựa theo ba tiêu chuẩn của các nhà Duy Thức đã quy định để khảo sát. Ba tiêu chuẩn đó là:

1.- THỂ (Dynamic State): nghĩa là thể tánh hay bản thể của vạn pháploài người, tức là nguồn gốc phát sanh ra vạn pháploài người. Đứng trên lập trường Nhân quảnhận xét thì Thể ở đây là chỉ cho Nguyên Nhân (Cause), nghĩa là nguồn gốc để phát sanh ra vạn pháploài người.

2.- TƯỚNG (Form): nghĩa là hình tướng, tướng trạng của vạn pháploài người. Vạn pháploài người có nhiều hình tướng khác nhau thì nơi thể tánh nhất định cũng có nhiều nguyên nhân và chủng loại không giống nhau. Hình tướng của mỗi pháp khác nhau như thế nào thì nơi thể tánh, mỗi chủng loại cũng riêng biệt nhau và không giống nhau như thế đó. Nguyên do hình tướng của vạn pháploài người thảy đều phát sanh từ nơi thể tánh của mỗi chủng loại. Cũng như cây mít phát sanh từ nơi hạt mít và hạt mít chỉ sanh ra cây mít mà không thể sanh ra cây cam. Tướng ở đây là chỉ cho Quả Tướng, nghĩa là hình tướng thuộc loại kết quả của những nguyên nhân.

3.- DỤNG (Action): nghĩa là phần tác dụng của những nguyên nhân đã được phát sanh từ nơi thể tánh. Vạn pháp trong vũ trụ, có loại hiện ra hình tướng nhìn thấy được, có loại không hiện ra hình tướng mà người khảo sát chỉ biết qua sự tác dụng của chúng. Thí dụ như Tâm Lý của con ngườinăng lượng của điện không gian, chúng ta chỉ có thể hiểu biết qua sự tác dụng của chúng, mà không thể nhìn thấy được hình tướng thật của chúng. Dụng ở đây cũng là chỉ cho Quả Tướng, nghĩa là hình tướng thuộc loại kết quả của những nguyên nhân.

Các nhà Duy Thức căn cứ nơi TƯỚNG và DỤNG của vạn pháploài người, nghĩa là căn cứ nơi sự kết quả của vạn pháploài người đã được thành hình mà khảo sát bằng cách quán chiếu theo phương pháp Thiền Quán và nhờ đó tìm ra bản thể của chúng, đồng thời biét được chúng từ đâu sanh ra một cách chính xác.

Duy Thức Học dựa trên Thức Chi, một chi trong mười hai Nhân Duyên của đức Phật chỉ dạy làm trung tâm khảo sát, nhằm mục đích biện minh cho nguyên lý "VẠN PHÁP TRONG VŨ TRỤ ĐỀU DO NHÂN DUYÊN SANH " của đức Phật chủ trương qua trạng thái DUY THỨC BIẾN.

C.- LỢI ÍCH CỦA DUY THỨC HỌC:

Như trước đã trình bày, Duy Thức Học là một môn học nhằm mục đích nghiên cứu những hình tướng giả tạo do Nhân Duyên Sanh của các sự vật để tìm hiểu nguồn gốc sanh khởi vạn pháp. Từ đó, những học giả nào nếu như đã hiểu rõ Duy Thức thì lẽ đương nhiên những người đó đã giác ngộ được sự thật của vạn pháp, nhận thức đúng nguyên lý, phân biệt một cách rõ ràng lẽ chánh tà, chân vọng và họ không còn bị mê hoặc, không còn bị lầm lẫn bởi những chủ thuyết ảo tưởng, những chủ nghĩa giả tạo. Đồng thời họ cũng tẩy trừ được bệnh chấp trước (chấp ngã, chấp pháp) và giải thoát khỏi nguồn gốc sinh tử luân hồi trong ba cõi. Thế là những học giả nói trên đã chứng được trạng thái Niết Bàn Tịch Tịnh Hữu Dư (Nghĩa là tâm người đó đã đạt được trạng thái Niết Bàn, nhưng thân thể của họ còn bị ô nhiễm khổ đau nên gọi là Hữu Dư Niết Bàn).

Duy Thức Học lại còn mục đích nữa là liên kết mọi yếu tố cần thiết trong chiều hướng trở về nguồn tâm trí căn bản của chúng sanh để làm nền tảng cho sự chứng ngộ mà những học giả có thể nhận thức được rằng: Ngoài những hiện tượng giả tạo đã được kết hợp bởi hình thức duyên sanh, con người còn có Tâm Trí ở trong và Tâm Trí đó đã được chuyển hóa từ Tâm Thức. Tâm Trí này là tâm chân thật không sanh diệt, không nhơ sạch, không tăng giảm và nó chính là yếu tố vô cùng trọng đại trong mọi lãnh vực sanh tồn của chúng sanh.

Vì chú trọng giá trị tinh thần của Tâm Trí nói trên, những học giả Duy Thức Học sẽ cố gắng gia công cải tiến Tâm Trí của mình để được tốt đẹp, để được thuần lương và để làm môi trường cho sự tiến tu đạo nghiệp, ngỏ hầu sớm ra khỏi vòng đai sinh tử luân hồi trong ba cõi (trong Tam Giới), đồng thời đạt thành chánh giác qua phương pháp tu Duy Thức Quán.

Ngoaì ra, với tính cách mổ xẻ, phân tích chi ly các sự vật phức tạp hiện có mặt trong thế gian này để nhận thức về tính chất, giá trịý nghĩa của vạn pháp, Duy Thức Học còn làm thỏa mãn một phần nào những dữ kiện mà các nhà Khoa Học cần đến, đồng thời Duy Thức Học cũng là kim chỉ nam, cũng là chìa khóa giúp cho các nhà nghiên cứu Phật Học đi vào kho tàng Giáo Lý Đại Thừa.

D.- SỰ HÌNH THÀNH DUY THỨC HỌC:
(Phần lịch sử của Duy Thức Học):

Duy Thức Học là một trong những môn học về Tạng Luận, bắt đầu bằng sự hiểu biết nên gọi là Thức. Người sáng lập ra môn học này phần đông là các vị Bồ Tát.

Đầu tiên đức Phật Thích Ca khi còn tại thế thường giảng Duy Thức trong nhiều bộ Kinh như: Kinh Lăng Già, Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Giải Thâm Mật, Kinh Mật Nghiêm, Kinh Lăng Nghiêm, Kinh Công Đức Trang Nghiêm v.v... cho các hàng đại Bồ Tát. Trong các đệ tử của đức Phật, Ngài Di Lặc (Maitreya) là một vị Bồ Tát đã đắc đạo về môn học này.

Khoảng 900 năm sau Phật nhập diệt, Ngài Vô Trước (Asanga) cũng là vị Bồ Tát ra đời, thọ giáo với Bồ Tát Di Lặc tại cung trời Đâu Xuất về môn học Duy Thức này. Sau khi đắc pháp, Bồ Tát Vô Trước đứng ra khởi xướng và phát huy môn học Duy Thức tại Ấn Độ. Em Ngài Vô Trước là Ngài Thế Thân (Vasubandhu) theo anh học Đạo. Đầu tiên Ngài Thế Thân sáng tác quyển "DUY THỨC TAM THẬP TỤNG" và quyển này được truyền bá khắp nơi trong nước Ấn Độ. Hệ phái tư tưởng Duy Thức được thành lập từ đây.

Đến thế kỷ thứ VI Tây Lịch, có nhiều đại Luận Sư rất lỗi lạc, nổi tiếng về môn học Duy Thức đã được xuất hiện tại Ấn Độ như: Thân Thắng, Hỏa Biện, Đức Tuệ, Trần Na, An Tuệ, Nan Đà, Tịnh Nguyệt, Hộ Nguyệt, Hộ Pháp, Giới Hiền, mỗi vị đều có sáng tác và chú thích nhiều bộ Luận để phát huy Duy Thức Học.

Đến đời nhà Đường bên Trung Hoa, niên hiệu Trinh Quán năm thứ 3 (636TL) có ngài Pháp Sư Huyền Trang du học ở Ấn Độ. Tại Đại học Nalanda, Ngài thọ giáo với Luận Sư Giới Hiền về môn học Duy Thức hơn mười năm.

Sau khi về nước, Ngài Huyền Trang đứng ra phát huy tư tưởng Duy Thức khắp Trung Hoa với tác phẩm: "THÀNH DUY THỨC LUẬN" do Ngài sáng tác. Ngoài ra Ngài Huyền Trang còn dịch nhiều bộ luận rất liên hệ về môn học Duy Thức, chuyển ngữ từ chữ Phạn ra chữ Hán. Đệ tử Ngài Huyền Tang, có các ngài như: Khuy Cơ, Tuệ Chiếu, Trí Châu v.v... thay nhau truyền bá môn học này.

Đến cuối đời nhà Nguyên (1279TL), môn học Duy Thức không người kế thừa nên bị mất tích tại Trung Hoa.

Mãi đến Dân Quốc năm 1912, có cư sĩ Dương Nhơn Sơn ở Nhật Bản, mang môn học Duy Thức về Trung Hoa phát huy trở lạithành lập "NỘI HỌC VIỆN CHI NA" để làm cơ sở nghiên cứu môn học Duy Thức cho những học giả trí thức trong nước. Nhờ đó môn học Duy Thức tại Trung Hoa được phục hưng trở lạimở rộng sang Việt Nam.

Riêng ở Việt Nam, môn học Duy Thức cũng được phổ biến từ lâu và những Luận Sư nổi tiếng về môn học này như: Thiện Hoa, Tuệ Nhuận, Thạc Đứ, Nhất Hạnh v.v... Đây là sự tiến trình môn học Duy Thức thành một hệ thống tư tưởng siêu đẳng và đã được lan tràn khắp nơi trên thế giới.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31334)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26226)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 27526)
Nội dung kinh này thuyết minh về Như lai tạng, quả đức của Phật. Nói rõ hành giả đoạn trừ phiền não nào, để chứng đắc Nhị thừa quả... HT Thích Đức Niệm dịch
(Xem: 27913)
Sa-môn Gotama từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. - Này các Tỷ-kheo, đó là lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
(Xem: 26716)
Tác phẩm của Tiến sĩ Thích Minh Châu có nhiều khám phá đáng ngạc nhiên. Ông đã chứng minh rằng bản kinh A-hàm (Àgama) bằng chữ Hán và bản kinh bộ Pàli (Pàli Nikàya) này có rất nhiều điểm tương đồng và cũng khá nhiều dị biệt.
(Xem: 31234)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20264)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22928)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30054)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21575)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20246)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 22666)
đệ tử Phật thì nên hết lòng, ngày cũng như đêm, đọc tụngquán niệm về tám điều mà các bậc đại nhân đã giác ngộ... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 20754)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 30318)
Trong thành Vương Xávị cư sĩ tên Hiền Hộ là bực thượng thủ năm trăm vị cư sĩ, các vị nầy đều thọ trì năm giới gìn giữ từ cử chỉ nhỏ nhặt...
(Xem: 28794)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34730)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 44232)
Kinh BÁCH DỤ gồm gần một trăm câu truyện ngụ ngôn đầy sinh độngsúc tích ẩn tàng các giá trị triết lý giáo dục nhân sinh do Đức Phật kể ra để dạy về giáo lýgiáo pháp.
(Xem: 35517)
KINH PHÁP CÚ là cuốn Kinh chọn lọc những lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế. Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ...
(Xem: 22545)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21379)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 20688)
Như Lai nơi nhân địa tu theo tự tánh Viên Giác, chiếu soi bản thể của tự tánh vốn tịch diệt, biết rõ thân tâm thế giới như hoa đốm trên không... Thích Hằng Đạt dịch
(Xem: 24761)
Nguyên văn chữ Hán của Kinh Viên Giác chỉ có hơn mười ba ngàn chữ mà bao gồm tất cả giáo pháp đốn tiệm của thượng cănhạ căn... HT Thích Duy Lực dịch
(Xem: 37923)
Kinh Hoa Nghiêmbộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân, tư tưởngtâm nguyện của Phật.
(Xem: 19045)
Dưới đây là bảng tóm tắt so sánh các bộ Luật Tỳ-kheo hiện đang lưu hành - Bình Anson
(Xem: 19330)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 21824)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0365 - Hán dịch: Lương Da Xá; Việt dịch HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 20871)
CỔ NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích - Việt dịch: Sa-môn THÍCH ÐỔNG MlNH - Nhuận văn và chú thích: Sa-môn THÍCH ÐỨC THẮNG
(Xem: 29527)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35135)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28818)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 32603)
Hết thảy nội dung được đề cập đến trong tập sách này đều được thể hiện một cách vô cùng sáng tạo, linh hoạt, với rất nhiều ví dụ thích hợp luôn luôn đi kèm theo mỗi vấn đề...
(Xem: 26226)
Bốn tâm vô lượng là cõi nước thanh tịnh của Bồ Tát, khi Bồ Tát thành Phật, những chúng sinh thành tựu các đức từ, bi, hỷ, xả sinh về nước ấy... Đoàn Trung Còn, Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 28933)
Nhất thời, Phật tại Tỳ-da-ly, Am-la thọ viên, dữ đại tỳ-kheo chúng bát thiên nhân câu. Bồ Tát tam vạn nhị thiên, chúng sở tri thức.
(Xem: 43151)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 34969)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 43934)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37907)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21333)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 43026)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 49015)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39842)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53782)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36827)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40815)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49739)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47313)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27700)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 27027)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27236)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24071)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20850)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34322)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22469)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25124)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
(Xem: 25849)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 22954)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22473)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21762)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23322)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21188)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant