Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 1 Ý Nghĩa Và Sự Hình Thành Duy Thức Học

28 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 10643)
Chương 1 Ý Nghĩa Và Sự Hình Thành Duy Thức Học

KHẢO NGHIỆM DUY THỨC HỌC
TÂM LÝ HỌC THỰC NGHIỆM
Thích Thắng Hoan

Chương 1

Ý NGHĨA VÀ SỰ HÌNH THÀNH DUY THỨC HỌC


1/- DUY THỨC:

DUY: tiếng Pali gọi là Mãtratã, nghĩa là CHỈ CÓ.

THỨC: tiếng Pali gọi là Vijnãna (Consciousness), nghĩa là HIỂU BIẾT.

THỨC, ở đây tức là chỉ cho sự HIỂU BIẾT. Sự hiểu biết này chính là một năng lực có khả năng phân biệthiểu biết vạn pháp sai khác qua các cơ quan cảm giác. Thức (Sự hiểu biết) còn là một năng lực có khả năng xây dựng và biến hiện vạn pháp thành nhiều hình tướng không giống nhau với hình thức Nhân Duyên Sanh.

DUY THỨC: (Vijnãnamãtratã) nghĩa là chỉ có sự hiểu biết trên hết và ngoài sự hiểu biết ra không còn sự vật nào khác có thể thay thế được, nên gọi sự hiểu biếtDUY THỨC. Theo Duy Thức, vạn pháp trong vũ trụ gồm cả tâm lývật lý đều là hình tướng giả tạo, không có thể chân thậtchúng nó luôn luôn bị sanh diệt để biến hoại. Sự có mặt của vạn pháp chính là do THỨC kết hợp các yếu tố về vật chất như là: Đất, Nước, Gió, Lửa để tạo nên và sự sanh diệt của vạn pháp cũng là do THỨC tác dụng không ngừng. Chỉ có THỨC mới đủ khả năng tạo dựng và duy trì sự sống còn của vạn pháp, nên gọi vạn pháp đều do DUY THỨC BIẾN.

Chi tiết hơn, phàm bất cứ sự vật nào mỗi khi dùng làm đối tượng (Object) với mắt, tai, mũi, miệng, lưỡi và toàn bộ thân thể của con người thì ngay lúc đó, một năng lực hiểu biết phát xuất từ phía trong con người đó tác dụng để tiếp xúc với sự vật đối tượng trên liền phát sanh cảm giácphân biệt. Cũng do từ sự phân biệt này, những tư tưởng của hiểu biết mới nối tiếp hiện khởi và sáng tạo thêm nhiều sự vật khác không cùng bản chất và không cùng hình tướng. Những sự vật khác không cùng bản chất và không cùng hình tướng được sáng tạo thêm đều do tư tưởng của hiểu biết xây dựng nên để được góp mặt trong vũ trụ cũng gọi là do DUY THỨC BIẾN. Nói cách khác, những sự vật không có thể chất, nghĩa là những sự vật không có sức sống ở trong, do Ý Thức thứ sáu tưởng tượng xây dựng thì cũng thuộc loại giả tạo và cũng không thực thể, đều cũng được gọi là do DUY THỨC BIẾN.

Có thể nói, THỨC là nguồn gốc, là bản thể của tất cả pháp trong vũ trụ. Vạn pháp trong vũ trụ, nếu như không có THỨC này làm điểm tựa căn bản thì nhất định không thể sanh thành và cũng không thể tồn tại một cách độc lập. Minh định rõ hơn, ngoài THỨC ra, không có một sự vật nào tự nó có thể thành hình và tự nó có thể tồn tại một cách độc lập trong thế gian mà không cần đến THỨC. Từ đó cho thấy, sự thành hình, sự sống còn và sự tồn tại sanh mạng của vạn pháp đều do THỨC quyết định, nên gọi là DUY THỨC.

2/- DUY THỨC HỌC (Logic of Knowledge):

Duy Thức Học là một khoa học không ngoài mục đích khảo sát, tìm hiểu vạn pháp trong vũ trụ về phương diện tên gọi (danh xưng), tính chất, thực thể và những hình tướng không giống nhau của những pháp đó để chứng minh rằng, tất cả đều là giả tạo, đều là duyên sanh, đều không thực thể mà trong đó chỉ do Duy Thức làm chủ biến hiện. Nói cách khác, vạn pháp trong vũ trụ đều do Thức đứng ra kết hợp các yếu tố quan hệ, cần thiết để xây dựngchuyển hóa thành hình tướng. Duy Thức nếu như rút lui và không còn sinh hoạt nữa thì vạn pháp sẽ bị hoại diệt theo. Tâm Thức không có hình tướng, chỉ căn cứ nơi các sự vật có hình sắc trong vũ trụ do Tâm Thức kết hợp và biến hiện để xác định thực thể của Tâm Thức. Nhằm kết luận quy về Tâm Thức làm căn bản cho chúng sanh hiện có mặt trong vũ trụ. Duy Thức Học chú trọng đến giá trị tâm linh làm nền tảng để mở bày nguyên lý của vạn pháp.

B.- MỤC ĐÍCH CỦA DUY THỨC HỌC:

Duy Thức Học là một môn học về Tâm, bắt đầu từ nơi Thức để tìm hiểu nguồn gốc của Tâm, nguyên do Tâm chính là thể (Static State) của Thức mà Thức lại là tác dụng (Activity) của Tâm Thể. Tâm Thể nếu như không có thì không có Thức tác dụng. Thế nên các nhà Duy Thức căn cứ trên sự tác dụng của Tâm Thể mà đặt tên cho nó là Thức, nhưng Thức ở đây chính là Thức Tạng (Thức Alaya dịch là Thức Tạng, nghĩa là Thức Chứa). Thức Tạng là một loại Tâm Thứcgiá trị làm căn bản cho sự sanh khởi vũ trụ và nhân sanh, nghĩa là vạn pháploài người trong vũ trụ đều phát sanh từ nơi Tâm Thức này. Đó là lời khẳng định của các nhà Duy Thức.

Duy Thức Học còn nhiệm vụ nữa là tìm hiểu vạn pháploài người trong vũ trụ từ đâu sanh, ai sanh ra chúng và sanh bằng cách nào? Các nhà Duy Thức đi đến kết luận rằng: "VẠN PHÁP ĐỀU DO THỨC BIẾN HOẶC TẤT CẢ ĐỀU DO TÂM TẠO". Để minh chứng cho những lời kết luận trên, chúng ta nên dựa theo ba tiêu chuẩn của các nhà Duy Thức đã quy định để khảo sát. Ba tiêu chuẩn đó là:

1.- THỂ (Dynamic State): nghĩa là thể tánh hay bản thể của vạn pháploài người, tức là nguồn gốc phát sanh ra vạn pháploài người. Đứng trên lập trường Nhân quảnhận xét thì Thể ở đây là chỉ cho Nguyên Nhân (Cause), nghĩa là nguồn gốc để phát sanh ra vạn pháploài người.

2.- TƯỚNG (Form): nghĩa là hình tướng, tướng trạng của vạn pháploài người. Vạn pháploài người có nhiều hình tướng khác nhau thì nơi thể tánh nhất định cũng có nhiều nguyên nhân và chủng loại không giống nhau. Hình tướng của mỗi pháp khác nhau như thế nào thì nơi thể tánh, mỗi chủng loại cũng riêng biệt nhau và không giống nhau như thế đó. Nguyên do hình tướng của vạn pháploài người thảy đều phát sanh từ nơi thể tánh của mỗi chủng loại. Cũng như cây mít phát sanh từ nơi hạt mít và hạt mít chỉ sanh ra cây mít mà không thể sanh ra cây cam. Tướng ở đây là chỉ cho Quả Tướng, nghĩa là hình tướng thuộc loại kết quả của những nguyên nhân.

3.- DỤNG (Action): nghĩa là phần tác dụng của những nguyên nhân đã được phát sanh từ nơi thể tánh. Vạn pháp trong vũ trụ, có loại hiện ra hình tướng nhìn thấy được, có loại không hiện ra hình tướng mà người khảo sát chỉ biết qua sự tác dụng của chúng. Thí dụ như Tâm Lý của con ngườinăng lượng của điện không gian, chúng ta chỉ có thể hiểu biết qua sự tác dụng của chúng, mà không thể nhìn thấy được hình tướng thật của chúng. Dụng ở đây cũng là chỉ cho Quả Tướng, nghĩa là hình tướng thuộc loại kết quả của những nguyên nhân.

Các nhà Duy Thức căn cứ nơi TƯỚNG và DỤNG của vạn pháploài người, nghĩa là căn cứ nơi sự kết quả của vạn pháploài người đã được thành hình mà khảo sát bằng cách quán chiếu theo phương pháp Thiền Quán và nhờ đó tìm ra bản thể của chúng, đồng thời biét được chúng từ đâu sanh ra một cách chính xác.

Duy Thức Học dựa trên Thức Chi, một chi trong mười hai Nhân Duyên của đức Phật chỉ dạy làm trung tâm khảo sát, nhằm mục đích biện minh cho nguyên lý "VẠN PHÁP TRONG VŨ TRỤ ĐỀU DO NHÂN DUYÊN SANH " của đức Phật chủ trương qua trạng thái DUY THỨC BIẾN.

C.- LỢI ÍCH CỦA DUY THỨC HỌC:

Như trước đã trình bày, Duy Thức Học là một môn học nhằm mục đích nghiên cứu những hình tướng giả tạo do Nhân Duyên Sanh của các sự vật để tìm hiểu nguồn gốc sanh khởi vạn pháp. Từ đó, những học giả nào nếu như đã hiểu rõ Duy Thức thì lẽ đương nhiên những người đó đã giác ngộ được sự thật của vạn pháp, nhận thức đúng nguyên lý, phân biệt một cách rõ ràng lẽ chánh tà, chân vọng và họ không còn bị mê hoặc, không còn bị lầm lẫn bởi những chủ thuyết ảo tưởng, những chủ nghĩa giả tạo. Đồng thời họ cũng tẩy trừ được bệnh chấp trước (chấp ngã, chấp pháp) và giải thoát khỏi nguồn gốc sinh tử luân hồi trong ba cõi. Thế là những học giả nói trên đã chứng được trạng thái Niết Bàn Tịch Tịnh Hữu Dư (Nghĩa là tâm người đó đã đạt được trạng thái Niết Bàn, nhưng thân thể của họ còn bị ô nhiễm khổ đau nên gọi là Hữu Dư Niết Bàn).

Duy Thức Học lại còn mục đích nữa là liên kết mọi yếu tố cần thiết trong chiều hướng trở về nguồn tâm trí căn bản của chúng sanh để làm nền tảng cho sự chứng ngộ mà những học giả có thể nhận thức được rằng: Ngoài những hiện tượng giả tạo đã được kết hợp bởi hình thức duyên sanh, con người còn có Tâm Trí ở trong và Tâm Trí đó đã được chuyển hóa từ Tâm Thức. Tâm Trí này là tâm chân thật không sanh diệt, không nhơ sạch, không tăng giảm và nó chính là yếu tố vô cùng trọng đại trong mọi lãnh vực sanh tồn của chúng sanh.

Vì chú trọng giá trị tinh thần của Tâm Trí nói trên, những học giả Duy Thức Học sẽ cố gắng gia công cải tiến Tâm Trí của mình để được tốt đẹp, để được thuần lương và để làm môi trường cho sự tiến tu đạo nghiệp, ngỏ hầu sớm ra khỏi vòng đai sinh tử luân hồi trong ba cõi (trong Tam Giới), đồng thời đạt thành chánh giác qua phương pháp tu Duy Thức Quán.

Ngoaì ra, với tính cách mổ xẻ, phân tích chi ly các sự vật phức tạp hiện có mặt trong thế gian này để nhận thức về tính chất, giá trịý nghĩa của vạn pháp, Duy Thức Học còn làm thỏa mãn một phần nào những dữ kiện mà các nhà Khoa Học cần đến, đồng thời Duy Thức Học cũng là kim chỉ nam, cũng là chìa khóa giúp cho các nhà nghiên cứu Phật Học đi vào kho tàng Giáo Lý Đại Thừa.

D.- SỰ HÌNH THÀNH DUY THỨC HỌC:
(Phần lịch sử của Duy Thức Học):

Duy Thức Học là một trong những môn học về Tạng Luận, bắt đầu bằng sự hiểu biết nên gọi là Thức. Người sáng lập ra môn học này phần đông là các vị Bồ Tát.

Đầu tiên đức Phật Thích Ca khi còn tại thế thường giảng Duy Thức trong nhiều bộ Kinh như: Kinh Lăng Già, Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Giải Thâm Mật, Kinh Mật Nghiêm, Kinh Lăng Nghiêm, Kinh Công Đức Trang Nghiêm v.v... cho các hàng đại Bồ Tát. Trong các đệ tử của đức Phật, Ngài Di Lặc (Maitreya) là một vị Bồ Tát đã đắc đạo về môn học này.

Khoảng 900 năm sau Phật nhập diệt, Ngài Vô Trước (Asanga) cũng là vị Bồ Tát ra đời, thọ giáo với Bồ Tát Di Lặc tại cung trời Đâu Xuất về môn học Duy Thức này. Sau khi đắc pháp, Bồ Tát Vô Trước đứng ra khởi xướng và phát huy môn học Duy Thức tại Ấn Độ. Em Ngài Vô Trước là Ngài Thế Thân (Vasubandhu) theo anh học Đạo. Đầu tiên Ngài Thế Thân sáng tác quyển "DUY THỨC TAM THẬP TỤNG" và quyển này được truyền bá khắp nơi trong nước Ấn Độ. Hệ phái tư tưởng Duy Thức được thành lập từ đây.

Đến thế kỷ thứ VI Tây Lịch, có nhiều đại Luận Sư rất lỗi lạc, nổi tiếng về môn học Duy Thức đã được xuất hiện tại Ấn Độ như: Thân Thắng, Hỏa Biện, Đức Tuệ, Trần Na, An Tuệ, Nan Đà, Tịnh Nguyệt, Hộ Nguyệt, Hộ Pháp, Giới Hiền, mỗi vị đều có sáng tác và chú thích nhiều bộ Luận để phát huy Duy Thức Học.

Đến đời nhà Đường bên Trung Hoa, niên hiệu Trinh Quán năm thứ 3 (636TL) có ngài Pháp Sư Huyền Trang du học ở Ấn Độ. Tại Đại học Nalanda, Ngài thọ giáo với Luận Sư Giới Hiền về môn học Duy Thức hơn mười năm.

Sau khi về nước, Ngài Huyền Trang đứng ra phát huy tư tưởng Duy Thức khắp Trung Hoa với tác phẩm: "THÀNH DUY THỨC LUẬN" do Ngài sáng tác. Ngoài ra Ngài Huyền Trang còn dịch nhiều bộ luận rất liên hệ về môn học Duy Thức, chuyển ngữ từ chữ Phạn ra chữ Hán. Đệ tử Ngài Huyền Tang, có các ngài như: Khuy Cơ, Tuệ Chiếu, Trí Châu v.v... thay nhau truyền bá môn học này.

Đến cuối đời nhà Nguyên (1279TL), môn học Duy Thức không người kế thừa nên bị mất tích tại Trung Hoa.

Mãi đến Dân Quốc năm 1912, có cư sĩ Dương Nhơn Sơn ở Nhật Bản, mang môn học Duy Thức về Trung Hoa phát huy trở lạithành lập "NỘI HỌC VIỆN CHI NA" để làm cơ sở nghiên cứu môn học Duy Thức cho những học giả trí thức trong nước. Nhờ đó môn học Duy Thức tại Trung Hoa được phục hưng trở lạimở rộng sang Việt Nam.

Riêng ở Việt Nam, môn học Duy Thức cũng được phổ biến từ lâu và những Luận Sư nổi tiếng về môn học này như: Thiện Hoa, Tuệ Nhuận, Thạc Đứ, Nhất Hạnh v.v... Đây là sự tiến trình môn học Duy Thức thành một hệ thống tư tưởng siêu đẳng và đã được lan tràn khắp nơi trên thế giới.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29892)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27174)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21766)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22227)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23602)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20430)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20052)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21947)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24745)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18986)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24739)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30972)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23984)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27762)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26510)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21306)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23219)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38125)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18799)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18435)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19955)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19041)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23147)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23868)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22789)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22907)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29567)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20636)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18707)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15846)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18851)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19655)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20150)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19951)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18117)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22927)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34165)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16417)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16916)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39243)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26062)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20097)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18849)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24055)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29120)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22900)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30949)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21006)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26850)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20677)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26261)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23320)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19817)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24670)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30031)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20219)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20401)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15144)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15829)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23877)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant