Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

13. Phẩm Pháp Cúng dường

12 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 10829)
13. Phẩm Pháp Cúng dường


DUY-MA-CẬT SỞ THUYẾT KINH
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán
Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
Từ Ân Thiền Ðường Santa Ana, Hoa Kỳ Xuất Bản 1991

 

Phẩm Pháp Cúng Dường Thứ 13

Bấy giờ, Ðế Thích ở nơi đại chúng bạch Phật rằng:

-Thế Tôn! Con dù đã nghe trăm nghìn kinh điển của Phật với Văn Thù, nhưng chưa từng nghe kinh điển quyết định thật tướng thần thông tự tại bất khả tư nghì như thế. Như con hiểu nghĩa của Phật thuyết, nếu có chúng sanh nghe kinh pháp này tín giải, thọ trì, đọc tụng thì quyết định sẽ được đắc pháp, huống là tu hành đúng như Phật sở thuyết. Người ấy sẽ đóng bít nẻo ác, khai mở cửa thiện, thường được chư Phật hộ niệm,hàng phục ngoại đạo, dẹp tan ma oán, tu đạo Bồ Ðề, an trụ đạo tràng, thực hiện sở hành của Như Lai.

Thế Tôn! Nếu có người thọ trì, đọc tụng tu hành đúng như Phật sở thuyết, thì con sẽ cùng các quyến thuộc cúng dường hầu hạ. Những thành phố thôn quê, núi rừng đồng bằng, nơi nào có kinh này, chúng con sẽ cùng đến chỗ đó lãnh thọ kinh pháp, kẻ chưa tin khiến sanh lòng tin, kẻ đã tin thì hộ vệ cho họ.

Phật bảo:

-Lành thay! Lành thay! Thiên Ðế. Như lời ngươi nói, ta mừng cho ngươi. Kinh này rộng thuyết Vô Thuợng Bồ Ðề bất khả tư nghì của tam thế chư Phật. Thiên Ðế! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn thọ trì, đọc tụng, cúng dường kinh này tức là cúng dường tam thế chư Phật.

Thiên Ðế! Giả sử có chư Phật đầy khắp cõi tam thiên, đại thiên thế giới, nhiều như mía, tre, lúa, mè, rừng cây v.v... Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn, hoặc một kiếp hoặc chưa đầy một kiếp, cung kính tôn trọng, tán thán cúng dường thờ phụng cho đến chư Phật diệt độ rồi, đem xá lợi toàn thân của mỗi chư Phật xây dựng thất bửu tháp rộng bằng tứ thiên hạ, cao đến cõi Phạm Thiên, trang nghiêm rực rỡ, dùng tất cả hương hoa, anh lạc tràng phan, âm nhạc vi diệu bậc nhất để cúng dường hoặc một kiếp hoặc chưa đầy một kiếp.

Thiên Ðế! Ý ngươi thế nào? Phước đức người ấy có nhiều chăng?

-Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Phước đức người ấy dẫu cho trăm ngàn ức kiếp cũng chẳng kể xiết.

Phật bảo Thiên Ðế:

-Nên biết thiện nam tử, thiện nữ nhơn kia được nghe kinh điển giải thoát bất khả tư nghì này, tín giải, thọ trì, đọc tụng, tu hành được phước được phước đức nhiều hơn người trước. Tại sao? Vì Bồ Ðề của chư Phật đều từ kinh này sanh ra, tướng Bồ Ðề chẳng có hạn lượng. Do nhơn duyên này nên phước đức chẳng thể đo lường.

Phật lại bảo:

-Thiên Ðế! Về quá khứ vô lượng a tăng kỳ kiếp, có thế giới Ðại Trang Nghiêm, kiếp gọi Trang Nghiêm. Thời ấy có Phật hiệuDược Vương Như Lai, trụ thế hai mươi tiểu kiếp, hàng Thanh Văn ba mươi sáu ức na do tha, háng Bồ Tát mười hai ức.

Khi ấy, có Chuyển Luân Thánh Vương tên là Bửu Cái, đầy đủ thất bảo, làm vua tứ thiên hạ. Vua có ngàn con, đoan trang dũng mãnh, hay hàn phục oán thù. Lúc đó, Bửu Cái cùng quyến thuộc cúng dường thờ phụng Dược Vương Như Lai mãn năm kiếp, qua năm kiếp rồi bảo với ngàn con rằng:

"Các ngươi cũng nên đem thâm tâm cúng dường Phật như ta vậy."

Ngàn con vâng lời phụ vương, cũng cúng dường thờ phụng Dược Vương Như Lai mãn năm kiếp.

Trong đó có một vương tử tên Nguyệt Cái tự ngồi suy nghĩ: "Có cúng dường nào hơn việc này chăng?"

Do oai thần Phật, giữa hư khôngthiên tử nói rằng:

"Thiện nam tử! Dùng pháp cúng dường hơn các cúng dường khác."

Nguyệt Cái liền hỏi: "Thế nào là Pháp Cúng Dường?"

Thiên tử nói:

"Ngươi hãy đến hỏi Dược Vương Như Lai. Ngài sẽ nói rõ pháp cúng dường cho ngươi biết."

Tức thì, Nguyệt Cái đến chỗ Dược Vương Như Lai, đảnh lễ chân Phật, rồi đứng qua một bên bạch Phật rằng:

"Thế Tôn! Trong các cúng dường, pháp cúng dường là hơn cả. Vậy thế nào là pháp cúng dường?"

Dược Vương Như Lai bảo:

'Thiện nam tử! Pháp Cúng Dường là kinh thâm diệu của chư Phật sở thuyết, là Tổng trì sở ấn, pháp tạng sở nhiếp của Bồ Tát. Tất cả thế gian khó tin, khó hành. Vi diệu khó thấy, trong sạch chẳng nhiễm. Chẳng phải suy nghĩ phân biệt có thể đến. Người tu đến bậc Bất Thối Chuyển thành tựu lục độ, khéo phân biệt diệu nghĩa, thuận pháp Bồ Ðề, siêu việt các kinh, vào đại từ bi, lìa việc bọn ma và các tà kiến, thuận pháp nhân duyên, vô ngã, nhân, chúng sanh, thọ mạng, cũng là không, vô tướng, vô tác, vô khởi, hay khiến chúng sanh tọa đạo tràng chuyển pháp luân, long thiên hộ pháp thảy đều tán thán, khiến chúng sanh nhập pháp tạng Phật, gồm tất cả trí huệ của hiền thánh, thuyết đạo sở hành của Bồ Tát, nương nghĩa thật tướng của các pháp, sáng tỏ pháp tịch diệt vô thường, khổ, không, vô ngã, cứu giúp tất cả chúng sanh phá giới, hay khiến những tà ma ngoại đạo và kẻ tham đắm đều khiếp sợ, chư Phật hiền thánh cùng nhau tán thán, lìa sự khổ của sanh tử, hiện sự vui của Niết Bàn, ấy là do mười phương tam thế chư Phật sở thuyết. Nếu được nghe kinh điển này, tín giải, thọ trì, đọc tụng, dùng sức phương tiệnchúng sanh phân biệt giảng giải, chỉ bày rõ ràng. Hộ trì chánh pháp như thế gọi là pháp cúng dường."

"Lại nữa, nơi các pháp tu hành đúng như Phật sở thuyết, tùy thuận thập nhị nhân duyên, lìa các tà kiến, đắc vô sanh nhẫn, quyết định vô ngã, vô chúng sanh, chẳng trái nhân duyên quả báo, lìa nơi ngã sở, hành đúng pháp tứ y (y nghĩa bất y ngữ, y trí bất y thức, y kinh liễu nghĩa bất y kinh bất liễu nghĩa, y pháp bất y nhân), tùy thuận pháp tướng, vô sở nhập, vô sở qui. Vì vô minh tất cánh diệt nên chư hạnh cũng diệt, cho đến pháp sanh tất cánh diệt nên lão tử cũng diệt. Tác quán như thế thì thập nhị nhân duyên chẳng có tướng tận, kiến chấp chẳng khởi. Ấy gọi là pháp cúng dường tối thượng."

Phật bảo Thiên Ðế:

-Vương tử Nguyệt Cái nghe Dược Vương Như Lai thuyết pháp như thế đắc nhu thuận nhẫn, liền cởi bửu y với đồ trang sức trên thân thể để cúng dường Phật và bạch rằng:

"Thế Tôn! Sau khi Phật diệt độ, con sẽ hành pháp cúng dường, hộ trì chánh pháp. Nguyện nhờ oai thần Phật gia hộ, khiến con hàng phục được ma oán, tu hạnh Bồ Tát."

Dược Vương Như Lai biết thâm ý của Nguyệt Cái liền thọ ký rằng:

"Ngươi về sau sẽ hộ vệ thành trì chánh pháp."

Khi ấy, Nguyệt Cái chứng kiến pháp thanh tịnh, nghe Phật thọ ký, tín thọ xuất gia, tinh tấn tu tập thiện pháp, chẳng bao lâu đắc ngũ thần thông, hành đạo Bồ Tát, đắc pháp Tổng Trì, biện tài vô ngại. Sau khi Phật diệt độ, dùng sức thần thông, tổng trì biện tài đã đắc,tùy duyên phổ biến pháp luân sở chuyển của Dược Vương Như Lai mãn muời tiểu kiếp.

Tỳ kheo Nguyệt Cái vì siêng năng tinh tấn hộ trì chánh pháp ngay đời đó, thân đó giáo hóa trăm muôn ức người nơi Vô Thượng Bồ Ðề, được bất thối chuyển, mười bốn na do tha người phát tâm nhị thừa, vô lượng chúng sanh được sanh cõi trời.

Thiên Ðế! Vua Bửu Cái trước kia, nay đã thành Phật hiệu Bửu Diệm Như Lai. Ngàn con của vua tức là ngàn Phật trong hiền kiếp. Bắt đầu từ Phật Ca La Cưu Tôn Ðà cho đến Phật cuối cùng hiệu là Lâu Chí Như Lai. Tỳ kheo Nguyệt Cái tức là thân ta đây.

Thiên Ðế! Phải biết pháp yếu dùng pháp cúng dường nơi các cúng dường này là bậc nhất, tối cao, tối thượng, chẳng gì so bằng. Vì thế, Thiên Ðế! Nên dùng pháp cúng dường để cúng dường Phật.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29908)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27195)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21788)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22257)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23633)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20462)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20066)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21958)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24776)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 19017)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24793)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 31013)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 24011)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27785)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26555)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21366)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23247)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38177)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18816)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18440)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 20004)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19061)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23202)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23904)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22835)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22946)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29607)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20654)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18733)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15858)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18878)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19706)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20178)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19969)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18141)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22983)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34204)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16442)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16942)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39294)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26117)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20129)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18879)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24094)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29164)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22924)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30986)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21041)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26881)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20695)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26278)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23354)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19837)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24700)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30055)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20243)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20433)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15163)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15847)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23925)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant