Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 13

15 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 8490)
Phần 13


KINH DUY MA CẬT GIẢNG GIẢI
Hòa Thượng Thích Thanh Từ

Phần 13

Ngài Văn Thù nói: 

( Hãy gát việc đó lại. Cư sĩ, cái bệnh ông có thể chịu nổi chăng? Ông trị liệu có bớt, không có thể tăng chăng? 

Tôi đi thăm bệnh ông mà nói chuyện xa vời quá. Thực tế thì gát chuyện đó lại. Bây giờ là chuyện thực tình là bệnh ông có nặng lắm không? Ông chịu nổi không? Và ông trị kiệu nó có giảm bới hay là nói tăng. 

Thế Tôn ân cần thăm hỏi ông vô cùng

Thế Tôn rất là thương, thăm hỏi ông lắm. Đó là bổn phận sứ giả rồi đó. 

Này cư sĩ! Bệnh ấy do nguyên nhân gì mà khởi? Bệnh sanh đã lâu chăng? Làm sao mà hết? 

Phải làm sao cho hết? Bệnh đó sanh lâu chưa? Như vậy là ba câu hỏi. Câu hỏi thứ nhất là nhân duyên gì mà sanh bệnh? Câu hỏi thứ hai, bệnh đó đã lâu chưa? Câu hỏi thứ ba làm sao cho hết bệnh đó? Ba câu hỏi để ông Duy Ma Cật trã lời. 

Ông Duy Ma Cật nói: 

( Từ si mà có ái, ắt là cái bệnh của tôi sanh. 

Từ si mà có sai. Như vậy Ngài có si sao? Qua tới câu sau thì thấy rõ ý nghĩa này. Chỗ này khỏi cần giải thích để câu sau thấy. 

Do tất cả chúng sanh bệnh cho nên tôi bệnh. Nếu tất cả chúng sanh được lành thì bệnh tôi cũng lành. 

Như vậy câu mở đầu ông trả lời nghĩa là nguyên nhân bệnh là do si có ái sanh ra bệnh. Đó là nguyên nhân từ đâu sanh ra bệnh. Đó là nguyên nhân từ đâu sanh ra bệnh. Câu thứ hai là bệnh đó bao lâu rồi. Đây nói tất cả chúng sanh có bệnh thì tôi có bệnh, không biết bệnh bao lâu. Rồi câu hỏi không biết bao lâu mà lành. Nói chừng nào lành thì Ngài nói chừng nào chúng sanh hết bệnh thì tôi lành bệnh. Như vật tóm tắt trả lời ba câu hỏi rồi phải không? Bây giờ mới giải thích

Vì cớ sao? Bồ Tátchúng sanh nên vào sanh tử. Có sanh tử ắt là có bệnh. 

Như vậy mới giải thích tai sao có bệnh. Bồ Tát là vì chúng mà vào trong sanh tử, mà có sanh tử thì có bệnh. Đó là nguyên nhân bệnh. Như vậy có si, có ái tức là có sanh tử. Chúng sanh do si ái cho nên có sanh tử thì Ngài liền có bệnh. Ngài phải vào sanh tử cho nên Ngài có bệnh. Chớ không phải Ngài có si có ái. Bây giờ chúng ta vào đây là chúng ta từ si và ái mà có trong sanh tử này. Bồ Tát thương chúng ta nên đi vào trong sanh tử, mà đi vào trong sanh tử gọi nó là bệnh. 

Nếu chúng sanh được lìa bệnh thì Bồ Tát cũng lại hết bệnh, cũng không bệnh. 

Nếu chúng sanh hết trong sanh tử thì Bồ Tát còn vào trong sanh tử không? Đâu có còn. Vì vậychúng sanh còn bệnh thì Bồ Tát còn bệnh. Chúng sanh hết bệnh thì Bồ Tát hết bệnh. 

Đây thí dụ như ông Trưởng giả chỉ có một đứa con. Đứa con kia mắc bệnh thì cho mẹ cũng bệnh. Nếu đứa con kia bệnh được lành thì cha mẹ cũng lành. Bồ Tát cũng như thế, đối với chúng sanh yêu mến như con. Chúng sanh bệnh thì Bồ Tát bệnh. Chúng sanh bệnh lành thì Bồ Tát cũng lành. 

Lại nói bệnh ấy từ nhân duyên khởi. 

Nhân duyên nào mà khởi thì Bồ Tát bệnh đó là do lòng đại bi mà khởi. Bởi vì bệnh là sanh tử. Mà tại sao có sanh tử, là vì lòng thương chúng sinh. Chúng sinh đang lăn lộn trong sinh tử gọi là bệnh. Bồ Tátlòng từ bi mà đến trong sinh tử độ chúng sanh nên gọi là Bồ Tát bệnh. Bồ Tát bệnh là do đại bi mà bệnh chớ không phải do tứ đại bất hòa mà bệnh. Không phải do phiền não mà bệnh. Như vậy ở đây chúng ta mới thấy ý nghĩa thâm trầm của Bồ Tát. Vậy Bồ Tát có nghĩ gì cho mình không? Bồ Tát đối với chúng sanh thương như thương cái gì? Thương như con. Bây giờ những đứa con nào mà khôn ngoan, đứa con nào ngu ngốc thì phải thương làm sao? Nó khôn ngoan cũng thương mà mừng cho nó. Nó sẽ đỡ mau tỉnh. Đứa nào ngu ngốc cũng thương, thương mà tội nghiệp cho nó phải không? Nó ngu quá không biết chừng nào nó tỉnh. Cũng thương hết chớ không có đứa nào ghét. Thành ra khi nòa có tâm ghét là tâm chúng sinh rồi, phải không? Còn nếu ai thực là tâm Bồ Tát thì người hay mình thương, người dở mình cũng thương, không có người nào mình ghét hết. 

Ở đây quí vị kiểm lại coi mình tâm Bồ Tát hay tâm chúng sinh? Dễ thấy quá. Miễn ai mình cũng thương, dù người đó có khó khăn mấy với mình, mình cũng thấy dễ thương. Thương họ lắm phải không? Vậy đó tâm cũa Bồ Tát là như vậy. Thành ra Bồ Tát sở dĩ bệnh vì chúng sinh bệnh. Chúng sinh còn sanh tử thì Bồ Tát phải vào trong sanh tử. Như vậy có muốn người nào vào trong sanh tử nữa đâu, phải không? Không muốn thì đâu có muốn ai bị những cảnh khổ. Bây giờ 

Ngài Văn Thù Sư Lợi nói: 

( Này Cư sĩ, cái thất này vì sao mà trống không, không có thị giả? 

Duy Ma Cật nói: 

( Cái cõi nước chư Phật cũng lại đều không. 

Lại hỏi: 

( Vì sao mà không? 

Đáp rằng: 

( Bởi không, nên không. 

( Không sao dùng không? Hay không đâu cần không? 

( Do không phân biệt không cho nên không. 

( Không có thể phân biệt sao? 

( Phân biệt cũng không. 

( Không, phải dùng cái gì mà cầu? 

( Phải dùng trong 62 kiến chấp mà cầu. 

( 62 kiến chấp phải dùng cái gì mà cầu. 

( Phải ở trong các pháp giải thoát của chư Phật, như Phật mà cầu. 

( Pháp giải thoát của chư Phật phải dùng gì mà cầu? 

( Phải ở trong tất cả tâm chúng sinh, tâm hạnh chúng sinh mà cầu. Lại nhân giả hỏi rằng không có thị giả đó thì tất cả chúng ma và ngoại đạo đều là thị giả của tôi. Vì cớ sao? Chúng ma ưa sanh tử. Bồ Tát đối với sanh tử không có bỏ. Ngoại đạo thì ưa các kiến chấp. Mà Bồ Tát đối với các kiến chấp chẳng động. 

Như vậy đoạn lý luận nghe rất là thâm thúy. Đầu tiên là Ngài Văn Thù hỏi tại sao trong thất của ông trống không, không có thị giả. Rồi ông Duy Ma Cật nói chẳng những thất tôi mà thất của chư Phật cũng đều trống không hà. Tại sao cõi nước chư Phật cũng đều trống không? Bởi vì tất cả cõi chư Phật đều không có mọi kiến chấp, không có mọi phân biệt mới thành được Phật, mới thành giác ngộ. Cho nên cõi chư Phật nói là không. 

Ông hỏi thế nào là không? Ôöng đáp rằng bởi không nên không. Không nên không thì nghe khó hiểu quá. Cho nên liền hỏi thêm câu, không thì đâu cần không. Đã không thì đâu cần không mà nói do không nên không. Đáp rằng do không phân biệt không, cho nên không. Cái không này quí vị hiểu cho thật rõ, nói không mà thành không thì cái không ban đầu là cái không của nội tâm, do tâm khôngphân biệt. Tâm không phân biệt cho nên nói tâm không. Như nói rằng: “Tâm không cập đệ qui” đó. Tâm không là không có niệm dấy lên phân biệt, gọi là tâm không. Mà tâm không cho nên thấy ngoại cảnh nó không. Vì mình không phân biệt nên đối với ngoại cảnh dù có mà không khởi phân biệt thì cũng như không. Cho nên nói do không mà không. Do không tức là trong tâm không phân biệt, cho nên ngoại cảnh cũng thành không. Vì vậy mà gọi là không không. Ông liền hỏi thêm cái không có thể phân biệt chăng? Ông đáp rằng phân biệt cũng không. Vì cái không thì còn gì phân biệt. Mà vì không phân biệt nên cái không cũng là không. Cái phân biệt không và cái không cũng không. Như vậy cả hai đều không. 

Lại hỏi cái không đó từ đâu mà tìm. Tức là tìm lý do để mà thấy không tất cả phân biệt. Ở đây nói phải từ 62 kiến chấp mà tìm. Nghĩa là còn nằm trong một cái kiến chấp nào thì chưa, phải không? Trong 62 kiến chấp mà không động không dính thì đó mới gọi là không. Muốn tìm cái không thì từ 62 kiến chấp mà ra. Mà tìm 62 kiến chấp từ đâu. Đáp rằng phải từ trong pháp giải thoát của chư Phật mà dứt, chớ không đâu xa hết. Hay ở đâu mà tìm ra? 

Lại hỏi pháp giải thoát của chư Phật từ đâu mà tìm. Bây giờ pháp giải thoát của chư Phật từ đâu mà tìm. Chỉ thẳng từ nơi tâm hạnh của tất cả chúng sanh mà tìm. Trong tâm hạnh của tất cả chúng sanhtìm ra pháp giải thoát của Phật, quí vị thấy như vậy mình quí trọng pháp giải thoát của Phật. Mà pháp giải thoát bắt nguồn từ đâu? Tâm hạnh của chúng sinh. Như vậy tâm hạnh mình có pháp giải thoát của Phật không? Nó ra làm sao? Nếu con mắt thấy sắc mà không dính với sắc, đó là giải thoát. Như vậy ngay nơi tâm hạnh của mình mà có pháp giải thoát của Phật. Tai nghe tiếng mà không mắc kẹt tiếng. Đó là giải thoát của Phật 

Như vậy cho tới cái tâm duyên với pháp mà không dính với pháp thì đó là pháp giải thoát của Phật. Tất cả pháp giải thoát không có ở bên ngoài mà từ nơi tâm hạnh của chúng ta mà ra. Tâm hạnh chúng ta biết tu, biết gỡ mợi cái dính mắc thì được giải thoát, chớ không tìm giải thoát ở đâu xa hết. Như vậy trả lời về cái không đó rồi. 

Bây giờ hỏi tại sao không có thị giả đây. Giờ trả lời không thị giả. Nhân giả hỏi rằng tại sao không có thị giả đó, đây đáp rằng tất cả chúng ma và ngoại đạothị giả của tôi. Tại sao? Nói lý do nè! Vì chúng ma ưa sanh tử. Còn Bồ Tát đối với sanh tử không bỏ. Vì ưa sanh tử nó dẫn người đi trong sanh tử. Bồ Tát không bỏ sanh tử cho nên chúng ma là thị giả của tôi. Rồi ngoại đạo ưa có kiến chấp, Bồ Tát đối với các kiến chấp không động, cho nên ngoại đạothị giả của tôi. Như vậy ma là thị giả của Ngài, ngoại đạothị giả của Ngài, vì Ngài không bỏ sanh tử, Ngài không đống đối với các kiến chấp. Không động nghĩa là làm sao? Nghĩa là 62 kiến chấp đó mình không có dẹp mà cũng không có kẹt, không có mắc, gọi là không động. Không động cho nên nó gần được với mình. vì vậy mà nói rằng nó là thị giả. Bây giờ Ngài Văn Thù hỏi thêm: 

( Cư sĩ bệnh là những tướng gì? 

( Các bệnh của tôi không có hình, không có thể thấy. 

Cái bệnh của ông là bệnh tướng gì? Thí dụ nói tôi nhức đầu, tôi đau bụng hay cái gì đó thì nó có tướng. Ngài trả lời bệnh tôi không có tướng, không thể thấy được. 

Lại hỏi: 

( Cái bệnh này nó hợp với thân chăng? Nó hợp với tâm chăng? Bệnh đó là bệnh ngoài thân hay là bệnh trong tâm? 

đáp rằng: 

( Không hợp với thân mà vì thân tướng nó lìa hay là lìa thân tướng cũng chẳng hợp với tâm vì tâm như huyễn

Vì thân thì tôi đã lìa thân tướng. Vì tâm thì tôi đã thấy tâm như huyễn. Cho nên nó không hpự ở thân cũng không hợp ở tâm. 

Lại hỏi: 

( Địa đại, thủy đại, hỏa đại, không đại. Nơi tứ đại thì cái đại nào là bệnh? 

( Cái bệnh ấy khoong phải địa đại cũng chẳng lìa địa đại. Thủy hỏa phong đại cũng lại như thế. các chúng sanh bệnh là từ tứ đại mà khởi. Do kia có bệnh cho nên tôi bệnh. 

Như vậy chúng sanh bệnh là từ tứ đại mà ra, phải không? Bây giờ chúng sanh bệnh thì tôi bệnh, cho nên bệnh tôi không từ tứ đại. Bởi vì sao? Vì tứ đại thì thật ra đất có bệnh không? Đất, nước, gió, lửa nó không bệnh. Nhưng mà vì họp lại rồi sanh bệnh. Cho nên đối với Ngài, Ngài thấy tứ đại không bệnh. Mà tứ đại không bệnh cho nên Ngài cũng không phải bệnh nhưng vì chúng sanh bệnh, chúng sanhi bệnh vì chấp tứ đại là thật cho nên thấy tứ đại khởi bệnh. Tứ đại khởi bệnh cho nên Bồ Tát cũng bệnh là để nói bệnh của Ngài từ nơi chúng sanh mà có. 

Khi ấy Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi hỏi ông Duy Ma Cật

( Bồ Tát nên làm thế nào để an ủi những vị Bồ Tát bệnh? 

Bây giờ Bồ Tát bệnh, Bồ Tát khác đến thăm thì phải làm sao để an ủi họ. Những cái này phải học cho thật kỹ để lỡ có ai, huynh đệ mình làm Bồ Tát, rồi mình cũng được làm Bồ Tát nữa, đi thăm nhau mình hỏi bệnh nhau cho nó hợp. Đây Ngài nói chuyện Bồ Tát an ủi Bồ Tát bệnh. 

Ông Duy Ma Cật mới nói: 

( Nói thân vô thường mà không nói chán lìa thân. 

Cái thứ nhất là tới thăm bệnh. Ờ! Thân này là vô thường. Thường thường theo Thanh Văn thấy vô thường thì chán, phải không? Nhưng Bồ Tát thấy thân vô thường mà không chán lìa thân. Đó là an ủi bệnh thứ nhất. Tại sao vậy? Nếu mình chán lìa thân thì đâu có vào sanh tử độ chúng sanh được. Biết thânvô thường mà không chán lìa nó. Nói thân có khổ mà không có ưa Niết Bàn. Nói thân này là khổ, mà thường thường những hàng Thanh Văn thấy thân là khổ cho nên cầu Niết Bàn là vui. Bây giờ nói thân này là khổ mà không cầu Niết Bàn. Vì cầu Niết Bàn mình được nhập rồi đâu cứu chúng sanh được, cho nên không cầu Niết Bàn. Đó là an ủi Bồ Tát bệnh. 

Nói thân là vô ngã mà nói pháp để giáo hóa chúng sanh

Vô ngã là không có ta thật mà luôn luôn nói pháp giáo hóa chúng sanh. Đó là an ủi Bồ Tát

Nói thân này không tịch tức là rỗng lặng mà không nói cứu cánh tịch diệt

Nói rỗng lặng nhưng không phải hoàn toàn rỗng không. 

Nói phải hối những lỗi về trước mà không nói vào quá khứ

Câu đó dễ hiểu không? Nói rằng tất cả lỗi về trước của mình đó, mình nên hối cải, nên chừa bỏ mà không nói vào quá khứ. Thực có quá khứ bởi vì mà thời không thật mà mói có quá khứ thật là chấp nhận ba thời thật sao. Biết những lỗi về trước mình phải hối cải như mà không có qú khứ thật. Đó là cái đặc biệt của Bồ Tát

Do mình bệnh nên thương những người kia bệnh. 

Tụi con phải học câu này cho thấu đó nha. Do mình bệnh nên thương những người kia bệnh. Mình thấy mình đau nó hành hạ thế nào, nó nhức nhối thế nào, rồi nhớ tới người khác khi đau mình thương xót họ cũng như mình vậy. chúng ta có cái thật hay quên. Khi mình bệnh rên thôi là rên, khóc sướt mướt. Tới chừng người ta bệnh mình ngó lơ. Cái tật đó thật là đáng trách. Nghĩa là khi mình bệnh, mình nhớ nó đau khổ như thế nào, buồn bã như thế nào. Nghĩ tới người khác mình thương xót họ như là lúc mình đang bệnh. Vậy đó thì thế gian này đỡ khổ biết bao nhiêu. Còn cái này mình bệnh thì hồi đó mình rên mình khóc. Tới phiên người ta bệnh mình ngó lơ thì cái đó thật là vô tình vô nghĩa. Đó là không thấy được, không cảm thông được cái gì giữa mình với người hết. 

Phải biết đời trước (túc thế tức là đời trước) có vô số kiếp khổ mà phải nhớ nghĩ lợi ích cho tất cả chúng sanh

Phải nhớ rằng chúng ta từ đời trước tới giờ sinh ra tử lại không biết bao nhiêu kiếp, chịu không biết bao nhiêu khổ. Bởi vậy chúng sanh còn đương lăn lộn đây. Chúng ta phải ráng độ họ, ráng giải thoát cho họ để họ hết khổ. Chớ mình nghĩ mình đã được cái giác, mình đã có khả năng thoát ly sanh tử khổ mà mình không thương chúng sanh thì không được. Cho nên mình nghĩ khi mình đã có phương tiện, thoát ly chúng khổ rồi thì phải nhớ rằng vô số kiếp về trước mình cũng khổ như họ vậy. Cho nên bây giờ mình phát tâm độ tất cả chúng sanh để cho họ thoát ly cái khổ đó. 

Nhớ việc tu phước trước mà nghĩ tới tịnh mạng (cái mạng sống nó phải thanh tịnh), có sanh ưu não. 

Tức là mình nhớ rằng mình đã có công phu trước kia tu hành những phước đức. Mà trước đã có tu rồi cho nên ngày nay mình mới được tu. Ngày nay được tu rồi thì đời này ráng sống cho được đời sống thanh tịnh. Đừng có ô uế, đừng có nhớp nhúa. Như vậy thường thường bảo nhớ lại gốc trước của mình. cũng đừng sanh chuyện buồn rầu. Mấy đứa có buồn rầu không? Có. Xấu quá! Bởi vì nếu mình không có duyên lành đời trước thì đời này làm sao gặp Phật pháp sớm như vầy. Vầy thì đời trước gieo trồng căn lành, đời nay mới được gặp Phật pháp sớm, thì mừng rằng mình đã cua túc duyên lành. Tại sao lại buồn, tại sao lại chán, phải không? Buồn chán đó là cái tâm niệm rất là xấu, phủi bỏ những công lao trước của mình. Khi buồn chán là lúc đó quên cái công lao trước của mình rồi. Thành ra nên tự mừng rằng túc duyên mình sâu dầy, cho nên đời nay gặp Phật pháp sớm. Những đứa nào 15, 17 mà biết được vào đạo rồi là càng mừng hơn nữa. Cười hoài. Mình có phước hơn mấy cô. Mấy cô tới trễ hơn mình phải không? Chớ có đâu lại buồn. Như vâỵ đó là chuyện tu hành đạo đức nói mới sâu dầy chớ. Bởi vậy nên bảo mình phải nhớ cái tu phước đời trước của mình mà hiện tại đời sống mình ráng cho trong sạch. Đừng buồn phiền mà phải thường tinh tấn. Phải làm hay sẽ làm y vương để trị bệnh cho tất cả chúng sanh. Phaiẻ tuyên bố rằng mai kia ta làm ông vua thầy thuốc, để trị bệnh cho tất cả chúng sanh, mới được chớ. Phải có cái niệm, cái tâm hồn mạnh mẽ, như vậy sau này mới xứng đáng là Bồ Tát

Bồ Tát nên như thế mà an ủi những Bồ Tát bệnh. Khiến cho những vị này được hoan hỉ

Như vậy thì quí vị thuộc đoạn này há. Để mai chiều huynh đệ có bệnh, mình lại an ủi. Biết đâu mai kia người ta cũng thọ giới Bồ Tát phải không? Thọ giới Bồ Tát thì người ta cũng Bồ Tát rồi. Chớ đừng lại rồi vuốt ve nói huynh có nhớ nhà không? Huynh bệnh vậy mà muốn má thăm không? Đừng có hỏi những điều đó. Mà mình phải nói những điều cao siêu. Như vâỵ mới gọi là biết an ủi những vị Bồ Tát có bệnh. Cho nên tụi con thấy chúng ta học đạo là học cái gương tốt, gương cao thượng của những vị Bồ Tát, chớ không phải chúng ta học những cái phàm tục. Vì vâỵ cái gì cao thượng chúng ta ráng. 

Ngài Văn Thù Sư Lợi nói: 

( Này cư sĩ, Bồ Tát có bệnh thì làm sao mà hàng phục tâm, điều phục cái tâm kia. 

Tức là tâm của của Bồ Tát kia bệnh. Như vậy chỗ này là chỗ tụi con phải học nữa. Hồi nãy học an ủi, bây giờ học điều phục mình. khi bệnh mình phải làm sao điều phục cái bệnh của mình đây. 

Ông Duy Ma Cật nói: 

( Bồ Tát có bệnh nên khởi nghĩ thế này. Nay ta bệnh đây đều là từ đời trước. Vọng tưởng điên đảo, do các phiền não mà sanh. Không có một pháp thật thì ai mà nhận bệnh. Vì cớ sao? Ai mà thọ bệnh này? 

Đây là câu thứ nhất. Từ vô số đời trước rồi sanh ra các phiền não. Rồi các phiền não đó sanh ra bệnh. Như vậy thì vọng tưởng điên đão sanh phiền não. Vọng tưởng, phiền não mấy cái đó thật không? Không thì bệnh có thật không? Cho nên không có cái pháp thật, cái bệnh thật. Như vậy lúc đó đau đầu, đau cổ gì đó cũng không có đau thật, phải không? Cái đó là do cái gì/ tức là do vọng tưởng, phiền não, điên đảo từ vô số kiếp rồi mới sanh phiền não, sanh bệnh vậy. 

Phiền não, vọng tưởng, điên đảo đều không thật thì cái bệnh đâu có thật. Bệnh không thật mà rên là khóc làm gì. Vậy thì cai cái bệnh làm sao, nó hành làm sao, chơi vậy. Nó làm sao nó làm đừng thèm lệ thuộc vào nó. Khi nào đau tụi con lện thuộc nó không? Như vậy mình biết cái trọng tâm phát khởi ra bệnh là do vọng tưởng điên đảo, do phiền não mà sanh thì vọng tưởng điên đảo, phiền nãokhông thật, bệnh không thật. Bệnh không thật thì ai là người chịu bệnh, là người đang đau đây. Đâu có ai thật mà đau. Như vậy mình thâý nó không thật thì tự nhiên bệnh không thật. Người chịu bệnh cũng không thật thì có gì đâu là bệnh. Đây mới giải thích

Vì cớ sao? Vì tứ đại hiệp nên giả danh là thân. 

Cái thân này do tứ đại hợp, giả danh tạm nói là thân. 

Tứ đại hợp là không chủ thì thân cũng là vô ngã

tứ đại cái gì là chủ. Nó không có chủ nên thânn này vô ngã, thân này không chủ. 

Lại cái bệnh này khởi đều do chấp ngã mà ra. Thế nên nơi ngã không nên sanh châps trước. 

Cái ngã mình đừng sanh chấp trươc. 

Đã biết cái gốc bệnh tức là trừ cái ngã tưởng và cái chúng sanh tưởng, phải khởi pháp tưởng. 

Mình biết cái gốc bệnh là do chấp ngã vì vậy phải trừ cái ngã tưởngchúng sanh tưởng. Trừ cái ngã tưởng là tưởng mình thật. Chúng sanh tưởng, tưởng người thật. Bây giờ phải khởi pháp tưởng. Pháp tưởng là gì? Pháp tưởng đây nên khởi nghĩ thế này. 

Chỉ do cái pháp duyên hay là các pháp nếu hợp mà thành thân này. Chúng là các pháp hợp thành thân này. Khởi chỉ là pháp khởi. Diệt chỉ là pháp diệt.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31347)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26231)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 27539)
Nội dung kinh này thuyết minh về Như lai tạng, quả đức của Phật. Nói rõ hành giả đoạn trừ phiền não nào, để chứng đắc Nhị thừa quả... HT Thích Đức Niệm dịch
(Xem: 27934)
Sa-môn Gotama từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. - Này các Tỷ-kheo, đó là lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
(Xem: 26728)
Tác phẩm của Tiến sĩ Thích Minh Châu có nhiều khám phá đáng ngạc nhiên. Ông đã chứng minh rằng bản kinh A-hàm (Àgama) bằng chữ Hán và bản kinh bộ Pàli (Pàli Nikàya) này có rất nhiều điểm tương đồng và cũng khá nhiều dị biệt.
(Xem: 31246)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20284)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22971)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30082)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21597)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20285)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 22690)
đệ tử Phật thì nên hết lòng, ngày cũng như đêm, đọc tụngquán niệm về tám điều mà các bậc đại nhân đã giác ngộ... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 20786)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 30341)
Trong thành Vương Xávị cư sĩ tên Hiền Hộ là bực thượng thủ năm trăm vị cư sĩ, các vị nầy đều thọ trì năm giới gìn giữ từ cử chỉ nhỏ nhặt...
(Xem: 28807)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34758)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 44250)
Kinh BÁCH DỤ gồm gần một trăm câu truyện ngụ ngôn đầy sinh độngsúc tích ẩn tàng các giá trị triết lý giáo dục nhân sinh do Đức Phật kể ra để dạy về giáo lýgiáo pháp.
(Xem: 35543)
KINH PHÁP CÚ là cuốn Kinh chọn lọc những lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế. Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ...
(Xem: 22565)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21387)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 20704)
Như Lai nơi nhân địa tu theo tự tánh Viên Giác, chiếu soi bản thể của tự tánh vốn tịch diệt, biết rõ thân tâm thế giới như hoa đốm trên không... Thích Hằng Đạt dịch
(Xem: 24775)
Nguyên văn chữ Hán của Kinh Viên Giác chỉ có hơn mười ba ngàn chữ mà bao gồm tất cả giáo pháp đốn tiệm của thượng cănhạ căn... HT Thích Duy Lực dịch
(Xem: 37938)
Kinh Hoa Nghiêmbộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân, tư tưởngtâm nguyện của Phật.
(Xem: 19080)
Dưới đây là bảng tóm tắt so sánh các bộ Luật Tỳ-kheo hiện đang lưu hành - Bình Anson
(Xem: 19355)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 21852)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0365 - Hán dịch: Lương Da Xá; Việt dịch HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 20892)
CỔ NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích - Việt dịch: Sa-môn THÍCH ÐỔNG MlNH - Nhuận văn và chú thích: Sa-môn THÍCH ÐỨC THẮNG
(Xem: 29537)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35170)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28842)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 32621)
Hết thảy nội dung được đề cập đến trong tập sách này đều được thể hiện một cách vô cùng sáng tạo, linh hoạt, với rất nhiều ví dụ thích hợp luôn luôn đi kèm theo mỗi vấn đề...
(Xem: 26236)
Bốn tâm vô lượng là cõi nước thanh tịnh của Bồ Tát, khi Bồ Tát thành Phật, những chúng sinh thành tựu các đức từ, bi, hỷ, xả sinh về nước ấy... Đoàn Trung Còn, Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 28944)
Nhất thời, Phật tại Tỳ-da-ly, Am-la thọ viên, dữ đại tỳ-kheo chúng bát thiên nhân câu. Bồ Tát tam vạn nhị thiên, chúng sở tri thức.
(Xem: 43173)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 34981)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 43960)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37926)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21345)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 43040)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 49029)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39870)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53803)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36836)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40832)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49744)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47333)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27752)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 27040)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27245)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24082)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20868)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34329)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22492)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25138)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
(Xem: 25869)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 22970)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22478)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21770)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23331)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21193)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant