Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm 15 Tùng Địa Dũng Xuất

25 Tháng Chín 201100:00(Xem: 6414)
Phẩm 15 Tùng Địa Dũng Xuất

LƯỢC GIẢI KINH PHÁP HOA 
Hòa Thượng Thích Trí Quảng
Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam - TP. Hồ Chí Minh 2011

Phẩm 15

TÙNG ĐỊA DŨNG XUẤT

I. LƯỢC VĂN KINH

Lúc bấy giờ, Bồ tát từ phương khác đông vô số chắp tay xin Phật cho các Ngài giữ gìn, đọc tụng, biên chép, cúng dường và giảng nói kinh Pháp HoaTa bà sau khi Như Lai diệt độ. Đức Phật không chấp thuận lời thỉnh cầu này, vì ở Ta bàvô số Bồ tát có khả năng làm việc ấy.

Khi Phật nói lời này, đất của 3.000 đại thiên quốc độ đều rúng nứt và vô lượng Bồ tát đồng thời xuất hiện. Các Bồ tát này thân sắc vàng ròng đủ 32 tướng tốt, trụ trong hư không ở hạ phương nghe tiếng Phật Thích Ca, nên hiện lên. Các Bồ tát ấy đến đảnh lễ tháp báu và các phân thân Phật, rồi chắp tay chiêm ngưỡng Phật Đa Bảo và Đức Thích Ca.

Từ lúc các Bồ tát này xuất hiện cho đến khi đảnh lễ trải qua 50 tiểu kiếp. Nhưng nhờ sức thần của Phật, đại chúng thấy như nửa ngày và thấy các Bồ tát đầy khắp hư không, trong ấy có bốn vị đứng đầu là Thượng Hạnh, Vô Biên Hạnh, Tịnh Hạnh, An Lập Hạnh.

Bồ tát Di Lặc và 8.000 hằng sa Bồ tát trong pháp hội đều ngạc nhiên về sự hiện hữu của vô số Bồ tát từ đất vọt lên. Bồ tát Di Lặc đại diện tất cả hỏi Phật rằng các Bồ tát này từ đâu đến và đến để làm gì. Ai là người thuyết pháp giáo hóa các Ngài, các Ngài tu hành theo kinh nào mà có thần thông như vậy.

Đức Thích Ca cho biết những Bồ tát này do chính Ngài giáo hóa sau khi đắc Vô thượng chánh đẳng giác. Các vị này thường ở nơi vắng lặng, siêng tu tinh tấn cầu Vô thượng huệ.

Bồ tát Di Lặc nghi ngờ, liền bạch Phật : “Các Bồ tát này là người đã trồng căn lành ở vô lượng vô biên Phật trong trăm ngàn muôn ức kiếp mới được thần thông lớn như thế. Vậy mà Đức Thế Tôn từ khi thành Vô thượng chánh đẳng giác đến nay hơn 40 năm, làm thế nào trong thời gian ngắn, Thế Tôn có thể giáo hóa các Bồ tát này được. Riêng chúng con hoàn toàn tin Phật không bao giờ nói sai. Nhưng xin Ngài vì những Bồ tát mới phát tâm tu hành sau khi Phật diệt độ mà giải thích cho họ khỏi đọa vào đường ác”.

II. GIẢI THÍCH

Kinh Pháp Hoa chia làm hai phần, từ phẩm 1 đến phẩm 14 là nhơn môn hay tích môn, từ phẩm 15 đến phẩm 28 là quả môn hay bổn môn. Đứng về nhơn địa tu hành nên gọi là nhơn môn và đứng về mặt thị hiện ra đời còn để lại dấu vết gọi là tích môn.

Sự thật Đức Phật thành Phật từ ngũ bách ức trần kiếp là bổn Phật hay bổn môn của thế giới siêu thực. Trung tâm điểm của phần bổn môn nằm ở phẩm Như Lai thọ lượng. Trước khi nói về Như Lai thọ lượng, một vấn đề chính yếu của bộ kinh Pháp Hoa, chúng ta thấy có phần mở đầu mà Ngài Nhật Liên gọi là phần cánh cửa hé mở trước, bắt đầu từ phẩm 10 đến phẩm 15.

Khởi đầu từ phẩm 10 với ba pháp quan trọng : nhà Như Lai, áo Như Lai, tòa Như Lai, nghĩa là điều kiện tiên quyết hành giả muốn nghe Pháp Hoa, thấy được Như Lai phải xa rời trần cấu, phiền não, nhiễm ô không còn chi phối tâm, chứng được Bát Nhã an trụ pháp KHÔNG.

Từ pháp KHÔNG, phát tâm từ, tình thương của hành giả bao phủ muôn loài. Dưới mắt hành giả, không có người xấu, mọi người đều là Như Lai. Hành giả, Như Laichúng sanh, cả ba là một, đều thông nhau dưới dạng thể tánh. Đạt được phương tiện cần thiết ban đầu này, tháp Đa Bảo mới xuất hiện. Tháp Đa Bảo tiêu biểu cho Báo thân Phật hay phước đức trí tuệ do tu tập tích lũy nhiều đời. Từ đó hành giả hình thành được thế giới Phật, một thế giới bình đẳng tuyệt đối.

Từ pháp KHÔNG, ta rớt vào thế giới này, thì hiện tượng đổi khác, đất bằng lưu ly, mọi việc trên cuộc đời không còn chướng ngại. Cửa thứ nhất là cửa KHÔNG và cửa thứ hai của thế giới Thật Báo do thành quả tu hành mà Đức Thích Ca đạt đượctác dụng vào xã hội hiện thực Ngài sống. Nếu kẹt ở tích môn, hành giả chỉ thấy phần hiện tượng trên cuộc đời. Nương theo sanh thân Phật hiện hữu trên cuộc đời mà tiến sâu vào Bồ tát tạng của Ngài với vô số phân thân Phật thuyết pháp mười phương. Thâm nhập được thế giới Thật Báo của Phật rồi, hành giả quan sát ngược lại những việc làm của Ngài ở Ta bà sẽ không ngạc nhiên hay thắc mắc về những thành quả phi thường mà Ngài đạt được.

Hiện cảnh Bảo Tháp xong, Phật nhắc nhở ai muốn thành Phật phải phát nguyện ngay. Lúc ấy, chúng hội đã bước vào pháp hội không trung, thấy được thành quả mới phát tâm tu hành. Đó là những Bồ tát sơ tâm phát nguyện hoằng truyền ở quốc độ khác và 80 hằng hà sa đại Bồ tát trụ ở quả vị bất thoái, tức Bồ tát từ đệ bát địa trở lên. Các Ngài đã thấy được Báo thân Phật mới phát nguyện giữ gìn kinh này ở Ta bà, không tiếc thân mạng.

Văn Thù Sư Lợi Bồ tát thấy ý nguyện kiên cố không sợ chết của các Bồ tát Báo thân rất tốt, nhưng không phải dễ làm và có phần nguy hiểm. Ngài liền đại diện chúng hội hỏi Phật về cách hoằng truyền kinh Pháp Hoa sau khi Như Lai diệt độ, nghĩa là làm thế nào thể hiện một cách sống giải thoát bất tử.

Đức Phật liền dạy bốn an lạc hạnh. Khi hành giả liều chết sẽ không thấy Phật, nhưng trở về trụ an lạc hạnh, chắc chắn sống được với Ngài. Những Bồ tát này nổi tiếng mười phương, dẫn đầu Bồ tát bất thoái chuyểnVăn Thù Sư Lợi. Các Ngài là Bồ tátthế giới Thật Báo trang nghiêm đã đạt được thành quả trên bước đường tu do cúng dường, thân cận các Đức Phật và trọn tu sáu pháp ba la mật, làm lợi ích cho trăm ngàn muôn ức chúng sanh. Điều này gợi nhắc chúng ta trên bước đường hành Bồ tát đạo, cần thể hiện việc tu hành bằng những hành động thực tiễn mang lợi ích cho mọi người.

Các Bồ tát bất thoái chuyển thị tùng Báo thân Phật từng giảng nói Pháp Hoa trong mười phương. Tuy các Ngài gặp khó khăn, nhưng đã thành tựu công đức trên cuộc đời và tròn đầy bốn pháp an lạc. Vì thế, các Ngài không còn gì phải sợ sệt và không chướng ngại nào có thể cản ngăn bước chân hành đạo của các Ngài. Nhờ đó các Ngài dũng mãnh phát nguyện hoằng truyền Pháp Hoa. Đối với hàng Bồ tát này, Phật mới triển khai Đức Phật thường trú và Pháp thân Bồ tát. Các Bồ tát thị tùng Báo thân Phật, đã hành đạo chung với Phật. Nhưng nay tại sao Phật không cần các Ngài và cho biếtTa bà có sáu vạn hằng hà sa Bồ tát sau khi Như Lai diệt độ sẽ giữ gìn kinh Pháp Hoa.

Các Bồ tát sanh ra hoang mang nghĩ rằng ở Ta bà chúng sanh hung dữ, các Ngài đến đây trợ giúp Phật khai hóa mà chẳng thấy Bồ tát nào, chỉ thấy những người ưa thích hơn thua, mắng chửi nhau. Nếu có, tại sao từ trước đến giờ các vị Bồ tát này không làm, các vị này ở đâu mà các Ngài không thấy. Đại diện cho hàng Bồ tát bất thoái chuyểnBồ tát Di Lặc cũng không thấy được Bồ tát tùng địa dũng xuất vì Ngài là Bồ tát Báo thân, nên không thể thấy Bồ tát Pháp thân.

Phật muốn triển khai Pháp thân Bồ tátPháp thân Phật cho hàng Bồ tát Báo thân, làm cho các Ngài thấy được Pháp thân bằng cách mở cửa cho thấy ở Ta bà có sáu vạn hằng hà sa Bồ tát tùng địa dũng xuất hay Bồ tát Pháp thân sau khi Như Lai diệt độ sẽ hoằng truyền kinh Pháp Hoa. Và phẩm Tùng địa dũng xuất mở ra cánh cửa sau cùng cho chúng hội bước vào thế giới chân thật. Phật vừa dứt lời, vô số Bồ tát tùng địa dũng xuất từ đất vọt lên. Các vị này thân sắc vàng, đầy đủ 32 tướng tốt tiêu biểu cho thân tâm hoàn toàn sạch nghiệp.

Bồ tát tùng địa dũng xuất hoàn toàn trong sạch không có tỳ vết vì sống trong Ta bà, chúng sanh lòng dạ hẹp hòi, ác độc, thích bươi móc chỉ trích. Muốn giáo hóa chúng, trong kinh ghi Bồ tát phải hoàn toàn thuần vàng, nghĩa là không có lỗi lầm, nhìn ở khía cạnh nào cũng thánh thiện, không phê phán được, mới đủ khả năngtư cách hành đạoTa bà.

Các Bồ tát bất thoái chuyển thị hiện mọi hình thức, được người thương nhưng cũng có người ghét nên còn có khuyết điểm. Trong khi Bồ tát tùng địa dũng xuất hoàn toàn thuần tịnh. Nhờ nhìn thấy đối tượng là những Bồ tát thuần vàng, thuần tịnh này mà các Bồ tát bất thoái chuyển điều chỉnh, gội rửa những sai lầm còn sót lại của họ.

Bồ tát tùng địa dũng xuất từ kẽ hở của mặt đất ở Ta bà trồi lên. Thế giới Ta bà nhằm chỉ cho thế giới tâm thức, hơn là thế giới hiện tượng của chúng ta sống. Ví dụ chúng ta sống chung nhau nhưng thù hận, tranh chấp, gây hấn với nhau thì đó là cảnh giới Ta bà. Trái lại, cùng sống hài hòa thanh thản an vui, ta đã tạo được thế giới tịnh lạc hay tịnh độ. Vì vậy tịnh hay uế đều tùy thuộc nơi chúng ta. Tâm đau khổ chắc chắn tạo thành thế giới đau khổ. Tuy nhiên ở điểm này, chúng ta không nên lầm với thế giới duy tâm.

Phật dạy thế giới hiện tượng muôn đời vẫn là hiện tượng, còn nguyên tố hình thành thế giới tốt hoặc xấu từ thời Phật Oai Âm Vương đến nay vẫn không thay đổi. Thí dụ nguyên tố tạo thành thế giới văn minh hàng ngàn năm trước vẫn có, nhưng vì không có người văn minh, nên không sử dụng được. Giống như thế giới Phật vẫn hằng hữu, nhưng phải đợi đến khi Đức Phật xuất hiện trên cuộc đời, chúng ta mới biết thế giới Phật.

Các Bồ tát nhờ tu chứng tròn đủ bốn an lạc hạnh, mới xé tung được bộ mặt trái của Ta bàchuyển đổi thế giới xấu xa này thành cảnh giới hoàn toàn tốt. Nói cách khác, chính ở ngay thế giới Ta bà xuất hiện các vị Bồ tát tùng địa dũng xuất, không phải Bồ tát nơi khác đến.

Phật cho biết khi Ngài thành tựu đạo Vô thượng chánh đẳng giác, đã giáo hóa các Bồ tát tùng địa dũng xuất tròn hạnh Bồ tát. Điều này khiến hằng hà sa Bồ tát bất thoái chuyển ngạc nhiên thêm. Vì trên thực tế Đức Phật thành Phật mới hơn 40 năm, còn các Bồ tát tùng địa dũng xuấtthân sắc vàng, đầy đủ 32 tướng, chắc chắn phải trồng căn lành từ nhiều đời ở các Đức Phật quá khứ, nên phải có quá trình tu hành lâu hơn.

Di Lặc Bồ tát đã từng trồng căn lành ở mười phương các Đức Phật quá khứ còn chưa có thân sắc vàng. Làm sao mới hơn 40 năm, Phật có thể giáo hóa những vị này thuần thục giỏi đến độ những người này ở ngay trước mắt, mà các Bồ tát bất thoái chuyển không thấy. Các Ngài biết Phật không hư vọng nhưng vì sợ chúng sanh đời sau không tin được, nên xin Phật giải nói.

Điểm này lạ hơn các kinh khác chỉ nói cho chúng đương cơ, trong khi kinh Pháp Hoa thường nói vì chúng sanh đời sau. Căn cứ vào ý này, Ngài Nhật Liên cho rằng ngày nay chúng ta tu hành triển khai kinh Pháp Hoa là mô hình kiểu mẫu thích hợp nhất và đáp ứng được nhu cầu của thời đại chúng ta.

Đức Phật xác định các Bồ tát tùng địa dũng xuất do chính Ngài giáo hóa. Sự giáo hóa này cần được hiểu dưới dạng Pháp thân. Phần giáo hóa của Phật có hai : bổn môn và tích môn. Tích môn là những dấu vết mà Phật lưu lại trên cuộc đời có thể thấy biết suy nghĩ được, là phần hiện thực của chúng ta. Tuy nhiên, những gì thực dưới mắt ta lại là giả ảo đối với Phật và chư Bồ tát, vì nó không tồn tại vĩnh viễn, cái gì có sanh phải có diệt.

Đức Phật cũng vậy, Ngài hiện thân trên cuộc đời, mang xác thân hữu hạn, tất nhiên phải nhập diệt. Ngài mượn những cái không thật, trong kinh thường diễn tả giáo lý như ngón tay chỉ mặt trăng, hay tất cả việc làm của Phật nhằm giúp chúng ta thoát khỏi chấp trước.

Dưới kiến giải của phàm phu, thấy một sự thật đơn giảnĐức Phật xuất thân ở cung dòng họ Thích, xuất gia thành đạo dưới cội bồ đề. Và trong 40 năm thuyết pháp, Ngài giáo hóa với tư cách một người bình thường như bao nhiêu người khác. Nhưng nâng tầm nhìn lên một nấc, chúng ta sẽ thấy Phật là một người không giống như mọi người, nghĩa là thấy về Báo thân Phật.

Đối với người bình thườngmặt phải mặt trái, tức còn ở trong vòng tương đối. Riêng Đức Phật là người vẹn toàn. Ngài thản nhiên từ bỏ cuộc sống nhung lụa, xa rời những gì phàm phu ưa thích. Ngài không hưởng thụ cuộc sống vật chất đầy đủ. Suốt cuộc đời, Ngài thể hiện những việc người thường không làm được, nên mọi người xem Ngài là phi thường. Từ đó bắt đầu thuyết pháp giáo hóa, biến đổi hoàn toàn phong tục xã hội Ấn Độ, xóa bỏ truyền thống giai cấp thống trị của Bà la môn với lời khẳng định mọi người đều có khả năng thành Phật.

Chỉ dạy chân lý này xong, Phật thể hiện ngay điều đó bằng cách đưa người thấp nhất, dở nhất là ông Bàn Đặc đến quả vị La hán. Nghĩa là chứng minh được rằng giáo lý của Ngài có tác dụng tẩy sạch trần cấu trong tâm niệm, giúp chúng ta phát sinh trí tuệ, thấy được chân lý.

Từ Báo thân Phật, nâng tầm nhìn lên một lần nữa, sẽ thấy Pháp thân Phật. Qua tác dụng của Pháp thân, mọi việc của Phật ở thế gian thành tựu dễ dàng mà không cần làm. Sự giáo hóa của Đức Phật có chăng, chỉ có đối với chúng sanh cănhạ liệt. Còn các đệ tử lớn của Phật tự xếp đặt cuộc đời họ, không đợi Phật dạy. Có những người tu cao hơn, chưa bao giờ thấy Phật nhưng đã làm y như Phật gọi là cảm tâm, khi họ đạt đến trạng thái tiếp cận chân lý. Các Bồ tát lớn tuy Phật không dạy, việc làmsuy nghĩ của các Ngài vẫn tương ưng với Phật, được Phật gia bị vì các Ngài đã tiếp cận với Pháp thân Phật.

Với ba thân, Phật giáo hóa chúng sanh dưới ba dạng khác nhau. Ứng thân giáo hóa thể hiện bằng Đức Phật Thích Ca mang thân hữu hạn của con người giảng dạy các pháp nhận được bằng mắt thấy tai nghe. Báo thân giáo hóa với những tác động hoàn toàn vô hình, có quyến thuộcBồ tát bất thoái chuyển mười phương đến xin hoằng truyền kinh Pháp Hoa. Và Pháp thân giáo hóa hàng Bồ tát tùng địa dũng xuất mà chính Bồ tát Di Lặc cũng chưa biết. Từ Pháp thân Phật thông đồng với Pháp thân Bồ tát, tự nhiên thành tựu sự giáo hóa. Kinh diễn tả là Phật đã giáo hóa nhiều đời, hay giáo hóa dưới dạng bổn môn, không dạy mà tự biết.

Trong bổn môn cũng có hai phần : bổn nhơn và bổn quả. Ở tích môn, các Tỳ kheo đang tu nhơn và Phật là quả. Quả này là quả của con người hay Đức Phật của loài người trên thế gian.

Pháp thân Phật hay Bồ tát tùng địa dũng xuấtthế giới Thường Tịch Quang hoàn toàn tịch tĩnh, nơi đó các pháp thường tự vắng lặng. Trong thế giới này là bổn môn, thì bổn quả chỉ có Phật và Bồ tát tùng địa dũng xuất nhận biết được mà thôi.

Di Lặc Bồ tát còn không thấy được, huống chi là phàm phu chúng ta. Mặc dù không thấy, nhưng chúng ta cảm nhận được Pháp thân Ngài. Thật vậy, theo suy nghĩ thông thường sau khi Như Lai diệt độ, mọi người chúng ta khó an lành. Khả dĩ còn tu được chăng, chỉ trong khoảng 500 năm sau khi Phật diệt độ mà thôi.

Tuy nhiên trên thực tế, chúng ta thấy ngược lại. 600 năm sau Phật diệt độ, có Long Thọ Bồ tát ra đời triển khai Pháp thân thường trú. Và càng sống cách xa Phật, sự hiện hữu của Pháp thân thường trú càng sáng tỏ với chúng ta hơn, đúng như lời Tổ nói : “Cận nhi bất kiến, viễn nhi tự thông”.

Nhất là ngày nay chúng ta cách Phật hơn 2.000 năm, một khoảng cách thời gian quá dài sau khi Phật diệt độ. Ai cũng nghĩ rằng chánh pháp không còn tồn tại. Thế mà chúng ta vẫn an nhiên tu tập trong pháp hội của Đức Phật một cách thanh thản kỳ diệu, nói lên được sự hằng hữu của Pháp thân thường trú đang bao bọc chúng ta. Chỉ vì chúng ta mang thân ngũ uẩn tràn đầy phiền não, bị chấp trước bao vây trói buộc quá chặt, che mờ trí tuệ, nên không nhận biết được Pháp thân bất sanh bất diệt của Phật.

Nếu khôngPháp thân Ngài che chở, chúng ta không thể nào tu hành được trong đời ngũ trược ác thế đầy sóng gió này. Và Bồ tát tùng địa dũng xuất bấy giờ không ai khác hơn là chính chúng ta. Chúng ta là người nhận di chúc đức Phật hoằng truyền kinh Pháp Hoa trong thời mạt pháp. Bao lâu chúng ta còn hòa hợp an ổn tu hành trên cuộc đời, Phật vẫn xem chúng tabiểu tượng của thế gian tướng thường trụ.

Chúng ta và thường trú Pháp thân là một, không phải hai. Khi phát tâm, chúng ta liền biến thành Pháp thân Phật. Về điểm này cần nhận định rõ “chúng ta” này ở dạng Pháp thân hay bản thể, không phải chúng ta bằng con người đang mang thân sanh diệt.

Nếu tự nhìn thấy thân phàm của chúng ta ở trên hiện tượng giới là Bồ tát tùng địa dũng xuất thật, hành giả đã rời bản thể thanh tịnh rớt qua vọng tưởng điên đảo, phạm tội đại vọng ngữ, đọa vào hạng tăng thượng mạn.

Hành giả muốn thâm nhập vào thế giới của Bồ tát tùng địa dũng xuất, phải trải qua quá trình tu hành bước theo chân Phật qua ba cảnh giới khác nhau từ thấp tiến dần lên cao. Khởi đầu ở thế giới phàm phu với một Đức Phật Thích Ca mang sanh thân y như mọi người, Ngài đưa chúng hội vào thế giới thứ hai kỳ diệu là Thật Báo trang nghiêm độ, được hiển bày trong phẩm Hiện Bảo Tháp. Và đến phẩm Tùng địa dũng xuất, Phật mới mở ra thế giới chân thật thứ ba. Mục tiêu ra đời của Phật cũng nhằm giới thiệu thế giới bất sanh bất diệt này vậy.

Dưới dạng thể tánh của sự vật, dù ở nơi nào cũng như nhau, Ta bàTịnh độ là một. Vì vậy, thế giới bất sanh bất diệt này không tìm thấy ở nơi xa xôi nào khác, mà nằm ngay ở thế giới Ta bà.

Thế giới chúng sanhnghiệp chướng phiền não tràn đầy gọi là Ta bà đau khổ. Nhưng Phật từ thế giới chân thật hiện thân trên thế gian, Ngài vẫn hoàn toàn tự tại bình ổn. Với tri kiến như thật, Phật thấy rõ quá trình trôi lăn vô tận của chúng sanh. Từ bản thể chúng ta mê thiếp, sanh lên cuộc đời, bước vào thế giới hiện tượng. Và khi chết, lại trở về với bản thể. Cứ như vậy mà thay hình đổi dạng trong sáu nẻo luân hồi.

Các Bồ tát đối mặt với đời và nhận chân được sự thật của cuộc đời do mộng mà có, điên đảo vọng tưởng mà sanh. Các Ngài sống với tâm thức bao la, không bị phiền não nhiễm ô chi phối. Từ tùng địa dũng xuất, tức từ quả môn, thấy được sự thật của sự vật, các Ngài trở lại, hiện thân vào cuộc đời làm lợi lạc cho quần sanh. Vì vậy đối với các Ngài, Ta bàTịnh độ, hay Ta bàTịnh độ không khác gì hai mặt của bàn tay.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15704)
Đại Chánh Tân Tu số 0018 - Hán dịch: Ðại Sư Pháp Hiền (đời Tống), Việt Dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 16396)
Giới là nguồn cội của hết thảy Thiện pháp, là nền tảng của Tam vô lậu học và mọi quả vị Giải thoát... Nguyên tác: Lý Viên Tịnh; Thích Giác Quả dịch
(Xem: 23622)
Tại Gia Bồ Tát Giới Bổn - 3 ngôn ngữ Anh, Việt, Hoa - Nhiều Tác Giả
(Xem: 17505)
Tập Tổng quan kinh Đại Bát Niết-bàn này được chúng tôi biên soạn như một phần trong công trình dịch thuật và chú giải kinh Đại Bát Niết-bàn... Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 81339)
Kinh Nhật Tụng - Kinh Tụng Hằng Ngày
(Xem: 19608)
Kinh Trường Thọ Diệt Tội Hộ Chư Đồng Tử Đà La Ni - Đời Đường, nước Kế Tân, Tam Tạng Sa môn Phật Đà Ba Ly vâng chiếu dịch, Việt dịch: Sa-môn Thích Thiện Thông.
(Xem: 20261)
Kiền Long Đại Tạng Kinh bao gồm 168 tập, chứa đựng 1669 bộ Kinh văn... Tổng hợp Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 47457)
Bấy giờ, năm trăm công tử Ly-xa, dẫn đầu bởi Bảo Tích (Ratnākāra), mỗi người mang theo một cây lọng quý, biểu hiệu quyền quý, đến vườn Xoài cúng dường Phật... Tuệ Sỹ
(Xem: 39227)
Trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 15844)
“Vũ trụ vạn hữu bản thể luận” của Định Hy là một kiến giải nhân sinh vũ trụ trên hai phương diện bản thểhiện tượng, tuy vậy không rời tính thực dụng của Phật pháp trong đời sống tu tập... Thích Đức Trí
(Xem: 23246)
Niệm Phật Vô Tướng - Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí, Nguyên tác: Tiêu Bình Thật cư sĩ, Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 19295)
Kinh Vô Lượng Nghĩa - Tam tạng pháp sư Đàm Ma Già Đà Da Xá, người Thiên-trúc, dịch từ Phạn văn ra Hán văn tại Trung-quốc, vào đời Tiêu-Tề; Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
(Xem: 15210)
Kinh Hạnh Nguyện Phổ Hiền - Tam Tạng pháp sư Bát Nhã, người nước Kế-tân, dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào đời Đường; Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
(Xem: 16825)
Bản nầy thứ tự kinh văn số 1726 được khắc vào đời nhà Minh Vạn Lịch -Trung Quốc - và đang lưu trữ tại Báo Ân Tạng thuộc chùa Jojoji - Tăng Thượng tự - Tokyo, Nhật Bản... HT Thích Như Điển
(Xem: 13090)
Có lần Đấng Thế Tôn ngụ tại vùng của bộ tộc Thích-ca (Sakka) tại thành Ca-tì-la-vệ (Kapilavatthu) trong khu vườn Ni-câu-đà (Nigrodha).
(Xem: 13159)
Đây là những điều tôi nghe Bụt nói vào một thời mà người còn lưu trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ Đà. Hôm ấy, cư sĩ Cấp Cô Độc cùng với năm trăm vị cư sĩ khác đã tìm đến nơi cư ngụ của thầy Xá Lợi Phất.
(Xem: 49040)
Trong khế kinh, Đức Phật nói. "Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật"... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 23355)
Giới luậtsinh mệnh, là sự sống của Phật tử, nhất là của hàng Tỳ kheo thừa Như lai sứ, hành Như lai sự... HT Thích Trí Thủ
(Xem: 19442)
Ba học Giới, Định, Tuệ là những nhân tố then chốt nhất của người học Phật, như chiếc đỉnh ba chân, thiếu một tất không thể đứng vững. Nhưng giới học, hay là giới luật học, lại là căn bản nhất... HT Thích Thanh Kiểm
(Xem: 17191)
Luật Học Tinh Yếu - Muốn qua sông phải nhờ thuyền bè, muốn vượt bể khổ sinh tử phải nương nhờ Giới pháp... HT Thích Phước Sơn
(Xem: 32159)
Cúi đầu lễ chư Phật, Tôn Pháp, Tỳ-kheo Tăng, Nay diễn pháp Tỳ-ni, Để Chánh pháp trường tồn... HT Thích Trí Thủ dịch
(Xem: 27490)
Luật Tứ Phần - Việt dịch: HT Thích Đổng Minh; Hiệu chính và chú thích: Thích Nguyên Chứng, Thích Đức Thắng
(Xem: 14339)
Du Già Sư Địa Luận Thích - Trước tác: Bồ Tát Tối Thắng Tử; Hán dịch: Tam-Tạng Pháp Sư Huyền Trang; Việt dịch: Thích Tâm Châu
(Xem: 14808)
Pháp Hoa Tông Yếu, Thứ tự kinh văn số 1725 trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh do Ngài Nguyên Hiểu sọan chữ Hán, Sa Môn Thích Như Điển dịch.
(Xem: 18650)
Bộ Pháp Hoa Huyền Nghĩa xuất bản hôm nay không có một liên quan nào, về mọi phương diện, với những bộ Kinh danh đề tương tựchúng ta thấy trong Đại tạng... Chánh Trí Mai Thọ Truyền
(Xem: 16440)
Tỳ Kheo Huệ Chiểu chùa Đại Vân ở Chuy Châu sọan, Sa Môn Thích Như Điển Phương Trượng chùa Viên Giác Hannover Đức Quốc dịch từ Tiếng Hán sang tiếng Việt trên chuyến Hoằng Pháp Âu Châu năm 2013
(Xem: 13940)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, thuộc Luận Tập bộ toàn. Thứ tự kinh văn số 1663 (562-563)... HT Thích Như Điển
(Xem: 17299)
Tác Giả: Tăng Triệu Ðại Sư - Lược Giải: Hám Sơn Ðại Sư; Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 19406)
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú - Do HT Thích Như Điển dịch Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh
(Xem: 28066)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử tiếp tục truyền bá giáo lý của ngài trong nhân gian. Đồng thời, để bảo đảm giáo lý của ngài một cách trung thực cho hậu thế, họ đã gom lại kết tập để soạn thành một tập toàn bộ kinh điển.
(Xem: 14410)
Toàn thể đại dụng, thu nhiếp xưa nay ngay trên đường; dứt trí tuyệt ngu, vật và ta ngang bằng nơi kiếp ngoại ... HT Thích Thiện Siêu
(Xem: 16965)
Luận về Pháp Hoa Kinh An Lạc Hạnh Nghĩa - Phiên dịch, chú giải: Daniel B. Stevenson & Hiroshi Kanno - Phiên dịch, thi hóa: Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm
(Xem: 22205)
Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ, bao gồm nghĩa lý thâm thiết để cởi mở nghiệp khổ cho chúng sanh... HT Thích Thiện Siêu dịch
(Xem: 23349)
Thiện nam tử! Có một loại pháp Bồ tát nên diệt trừ. Ðó là pháp tham. Thiện nam tử ! Ðây là một pháp phải nên diệt trừ vĩnh viễn.
(Xem: 28041)
Bộ kinh Lăng Nghiêm Tông Thông này được Ngài Thubten Osall Lama, tức Nhẫn Tế thiền sư, Đức Sơ Tổ Tây Tạng Tự, dịch và chú thích thêm từ bản Hán văn sang Việt văn...
(Xem: 64878)
Một thuở nọ Thế-tôn an-trụ Xá-vệ thành Kỳ-thụ viên trung, Mục-liên mới đặng lục-thông, Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm-luân.
(Xem: 33253)
Thế Tôn, nếu con nghĩ rằng con đắc đạo A La Hán, thì Thế Tôn chẳng nói Tu Bồ Đề là một hành giả thanh tịnh hạnh. Vì Tu Bồ Đề vốn là vô sở hành...
(Xem: 40212)
Tam thế chư Phật, chư Đại-Bồ-tát, thật chứng và nhập một với Pháp-giới-tính nên phát-khởi vô-duyên đại-từ, đồng-thể đại-bi, hiện ra vô số thân, theo duyên hóa-độ vô-lượng vô-biên chúng-sinh...
(Xem: 25152)
Luật nghi của Đức Thế Tôn chế định vì bảo hộ Tăng-già, thanh qui của Tùng Lâm đặt định để thành tựu pháp khí cho già lam, pháp thức hành trì cho cư gia phật tử để xây nền thiện pháp...
(Xem: 50269)
Khi bạn tiếp tục tiến tới trên đạo lộ một cách đúng đắn, với ý định trở thành một con người giác ngộ, bạn phải kiểm soát tâm theo đúng cách...
(Xem: 38578)
Sách này thâu kết lời giảng của đức Đalai Lama về bài kinh ngắn mang tựa đề Bát Nhã Tâm Kinh, một trong những bộ kinh Phật giáo Ðại thừa quý giá nhất.
(Xem: 27347)
Kinh Trường Bộ thi hóa (3 tập) - Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli - Chuyển thể Thơ: Giới Lạc Mai Lạc Hồng
(Xem: 28606)
Trọng tâm cứu khổ của Ngài Quán Thế Âm nhằm giải thoát sự khổ tâm, khổ tinh thần. Một khi con người đã giải thoát khổ tinh thần thì thân thể sẽ lành mạnh.
(Xem: 52263)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 35918)
Địa Tạng Bồ Tát Bản Tích Linh Cảm Lục - Liêu Nguyên dịch, Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 32936)
Kinh Kim Cương lấy vô tướng làm tông, vô trụ làm thể, diệu hữu làm dụng. Từ khi Bồ-đề Đạt-ma đến từ Tây Trúc truyền trao ý chỉ kinh này khiến người đời ngộ lý đạo, thấy tính.
(Xem: 50873)
Sự giải thoát tinh thần, theo lời dạy của Ðức Phật, được thành tựu bằng việc đoạn trừ các lậu hoặc (ô nhiễm trong tâm). Thực vậy, bậc A-la-hán thường được nói đến như bậc lậu tận...
(Xem: 74945)
Kinh chữ Hán - ĐĐ. Thích Hạnh Phú sưu tầm & biên soạn
(Xem: 36178)
Sắc là vô thường. Vô thường tức là khổ. Khổ tức là chẳng phải ta. Cái gì chẳng phải ta thì cũng chẳng phải sở hữu của ta. Quán sát như vậy gọi là chân thật chánh quán.
(Xem: 49025)
Người nhất tâm nghe kinh có hai hạng: nghe rồi thọ trì pháp và nghe rồi không thọ trì pháp. Người nghe rồi thọ trì pháp là hơn, người nghe rồi không thọ trì pháp là kém.
(Xem: 31039)
Nếu dùng hình sắc để thấy ta, Dùng âm thanh để cầu ta, Người nầy hành tà đạo, Chẳng thể thấy Như Lai... HT Thích Như Điển
(Xem: 33967)
Kinh Bại Vong (Parabhava-sutta) rút từ Tập Kinh (Suttanipata), kệ số 91-115, trang 18-20, Pali Text Society... HT Thích Thiện Châu dịch
(Xem: 28935)
Trải qua nửa thế kỷ thuyết pháp độ sinh, Ðức Ðạo sư đã hóa độ đủ mọi hạng người, không phân biệt màu da, chủng tộc, giai cấp, sang hèn... Thích Phước Sơn
(Xem: 58864)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 46299)
“Ðức Thế Tôn nghe Phạm vương ba lần ân cần thưa thỉnh, liền dùng Phật nhãn soi khắp thế giới chúng sanh, thấy sự ô nhiễm của chúng sanh có dày có mỏng...
(Xem: 43860)
Khi Đức Phật nói danh hiệu chư Phật đời quá khứ, có mười ngàn Bồ Tát, được Vô sinh nhẫn, tám trăm Thanh Văn, phát thiểu phận tâm, năm ngàn Tỷ khưu...
(Xem: 43251)
Kinh vừa là Kinh Phật, lại vừa là miệng Phật. Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã...
(Xem: 45969)
Này các Kàlàmà, chớ có tin vì nghe báo cáo, chớ có tin vì nghe truyền thuyết; chớ có tin vì theo truyền thống; chớ có tin vì được kinh điển truyền tụng...
(Xem: 48055)
Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Trọn bộ 11 tập - 600 cuốn; Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: HT Thích Trí Nghiêm
(Xem: 63778)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant