Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm 26 Diệu Trang Nghiêm Vương Bổn Sự

25 Tháng Chín 201100:00(Xem: 6830)
Phẩm 26 Diệu Trang Nghiêm Vương Bổn Sự

LƯỢC GIẢI KINH PHÁP HOA 
Hòa Thượng Thích Trí Quảng
Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam - TP. Hồ Chí Minh 2011

Phẩm 26

DIỆU TRANG NGHIÊM VƯƠNG BỔN SỰ

I. LƯỢC VĂN KINH

Đức Phật bảo đại chúng : “Thuở xưa cách đây vô lượng kiếp có Đức Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Như Lai. Trong pháp hội của Phật này có vua tên Diệu Trang Nghiêm, phu nhân tên Tịnh Đức và hai con là Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn. Hai người con có thần thông lớn, từ lâu tu tập đầy đủ mười pháp Ba la mật và 37 Trợ đạo phẩm, được các tam muội của Bồ tát như Tịnh Quang, Tịnh Sắc, Tịnh Chiếu v.v…

“Vì muốn độ vua Diệu Trang Nghiêm và vì lòng thương đối với chúng sanh, Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí nói kinh Pháp Hoa. Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn mời mẹ cùng đi đến Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí để cúng dường và nghe kinh Pháp Hoa. Phu nhân liền bảo hai con nên mời cha đi nghe pháp bằng cách hiện thần thông cho ông thấy để ông tin. Hai người con vì thương cha nên bay vọt lên hư không, biểu diễn các thứ thần thông.

“Thấy thần lực của các con, vua cha vui mừng phát tâm đến ra mắt Phật. Người mẹ liền cho phép Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn xuất gia. Lúc đó, 84.000 người ở hậu cung vua Diệu Trang Nghiêm đều thọ trì kinh Pháp Hoa. Từ vô lượng kiếp, Bồ tát Tịnh Nhãn đã thông đạt Pháp Hoa tam muộiBồ tát Tịnh Tạng thông đạt Ly chư ác thú tam muội. Phu nhân của vua được chư Phật tập tam muội.

“Vua và quần thần quyến thuộc, Tịnh Đức phu nhân cùng cung nữ, hai vương tử và 42.000 người, tất cả đồng một lúc đến đảnh lễ Phật. Đức Phật nói pháp cho vua nghe, nhà vua rất vui mừng. Vua cùng phu nhân mở chuỗi chơn châu đang đeo, rải trên Đức Phật. Chuỗi đó ở giữa hư không hóa thành đài báu, bên trong có Phật ngồi phóng hào quang.

“Đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí bảo tứ chúng rằng Vua Diệu Trang Nghiêm ở trong pháp ta siêng tu tập các pháp trợ Phật đạo, sẽ được làm Phật hiệu Ta La Thọ Vương, nước tên Đại Quang, kiếp tên Đại Cao Vương.

“Diệu Trang Nghiêm liền giao nước cho em rồi cùng phu nhân, hai con và các quyến thuộc đồng xuất gia. Xuất gia trong 84.000 năm thường tinh tấn tu hành theo kinh Diệu Pháp Liên Hoa, được Nhất thiết tịnh công đức trang nghiêm tam muội. Được tam muội xong, liền bay lên hư không bạch Phật : Bạch Thế Tôn, hai người con của con đã làm Phật sự, dùng thần thông biến hóa để chuyển tâm tà của con, giúp con an trụ Phật pháp, được thấy Thế Tôn. Hai người con này là thiện tri thức của con, vì muốn căn lành đời trước của con được phát khởi nên đã thị hiện sanh vào nhà con.

Đức Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Như Lai khen ngợi vua nói rất đúng. Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn đã từng cúng dường hằng hà sa Phật, thọ trì kinh Pháp Hoa, thương chúng sanh tà kiến mà giúp họ trụ trong chánh kiến.

Sau khi tán thán công đức Như Lai, vua Diệu Trang Nghiêm từ trên hư không xuống bạch Phật rằng pháp của Như Lai đầy đủ công đức vi diệu không thể nghĩ bàn. Từ nay con nguyện không làm theo trí của con nữa, không dám sanh lòng tà kiến, kiêu ngạo, giận hờn”.

Đức Phật kết luận rằng vua Diệu Trang Nghiêm nay chính là Bồ tát Hoa Đức hiện ở trước Phật. Hai người con là Bồ tát Dược VươngDược Thượng. Lúc nói phẩm này 84.000 người xa trần lụy, được pháp nhãn thanh tịnh.

II. GIẢI THÍCH

Diệu Trang Nghiêm vương bổn sự nói về tiền thân của Hoa Đức Bồ tát, trong kiếp quá khứ Ngài làm vua tên Diệu Trang Nghiêm. Phẩm Diệu Trang Nghiêm cụ thể hóa việc khó tin, khó hiểu, khó làm của các Bồ tátthiện thần phát nguyện ủng hộ người trì kinh Pháp Hoa dưới dạng Đà la ni, bằng cách kể lại việc tu hành trong mẫu gia đình đặc biệt của Diệu Trang Nghiêm vương.

Tên vua Diệu Trang Nghiêm mang ý nghĩa ông đã khéo léo trang nghiêm giới đức một cách mầu nhiệm. Ông trải qua quá trình khéo tu đạo Bồ tát, nở hoa trên cuộc sống, nay mới kết thành quả Hoa Đức Bồ tát. Với thành quả đó, ông thấy được công hạnh của Bồ tát Diệu Âmthể hiện đầy đủ ý nghĩa Diệu Pháp Liên Hoa.

Đức Phật kể lại bổn sự của vua Diệu Trang Nghiêm tu, ngầm khuyến khích chúng ta khéo tu Bồ tát đạo, lấy giới đức trang nghiêm thân tâm. Tương lai, chúng ta cũng sẽ kết thành quả Hoa Đức Bồ tát như Diệu Trang Nghiêm. Ngược lại, chúng ta tu hành vụng dại, phủ lên thân tâm mình toàn tham sân phiền não. Chắc chắn không đạt được công đức gì, còn thọ quả báo.

Mở đầu phẩm, Phật giới thiệu thế giới xa xưa tên Quang Minh Trang Nghiêm. Thế giới này không hoàn toàn thuần tịnh như thế giới Tịnh Quang Trang Nghiêm của Bồ tát Diệu Âm. Trong thế giới Quang Minh Trang Nghiêm có vua Diệu Trang Nghiêm tà kiến, nghĩa là một thế giới có đầy đủ tịnh và nhiễm. Nói cách khác, trong cuộc sống tu hành của chúng ta, trong tịnh có nhiễm, trong tốt có xấu.

Diệu Trang Nghiêm tiêu biểu cho khả năng con người. Ở thế giới thuần tịnh, chưa có việc gì tội lỗi. Nhưng bắt đầu sống và tu bằng thân tứ đại ngũ uẩn, vấn đề mới được đặt ra. Và điều nguy hiểm hành giả cần lưu tâm là càng giỏi, tà kiến càng dễ sanh ra, càng cách xa chơn tâm.

Từ bản thể thanh tịnh, bất giác sanh vọng động thì xuất hiện trên cuộc đời. Hành giả làm được nhiều việc, tạo được địa vị quan trọng, giống như từ Diệu Trang Nghiêm biến thành vua.

Với khả năng, ông tạo nên sự nghiệp, mà sự nghiệp này vẫn nằm trong thế giới của Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí. Nói cách khác, tất cả những hiện tượng sinh hoạt của hành giả dù tốt xấu, phải trái vẫn luân chuyển diễn biến trong thế giới thanh tịnh của chư Phật, chúng sanh vẫn đau khổ trong thế giới giải thoát của chư Phật.

Vua Diệu Trang Nghiêm sanh tà kiến, sống trong tà kiến do việc làm hướng ngoại quá nhiều, mà không biết. Thật vậy, khởi điểm của vua từ thế giới thanh tịnh Quang Minh Trang Nghiêm xuất hiện lại cuộc đời làm vua, thiết lập triều đình, có đầy đủ kế hoạch. Ông sống với nó và ưa thích nó. Điểm này ví cho người tu đang sống giải thoát. Nhưng hành đạo giáo hóa chúng sanh, lấy chúng sanh làm quyến thuộc và lấy tâm chúng sanh làm tâm mình, xem đó là phương tiện giáo hóa. Tuy nhiên, tâm chúng sanh là tâm phiền não, nên sau một thời gian giáo hóa, họ không xả bỏ được phương tiện này. Ngược lại, họ biến tâm chúng sanh thành tâm họ, là đã biến phương tiện thành cứu cánh.

Ở đây diễn tả việc sử dụng phương tiện và bị phương tiện lôi cuốn đi, biến phương tiện thành cứu cánh, bằng hình ảnh vua Diệu Trang Nghiêm ưa thích sống với Bà la môn, mất bản tâm rớt vào tà kiến. Khi vua rơi vào tà kiến, Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Như Lai vì ông vua này hay vì muốn cải hóa tà kiếnthuyết kinh Pháp Hoa. Tuy nhiên, Ngài không thuyết kinh Pháp Hoa bằng cách gọi Trời người đến. Ngài thuyết dưới dạng ba thiện tri thức Tịnh Đức, Tịnh TạngTịnh Nhãn.

Trong phẩm này, Phật cho biết người tu theo kinh Pháp Hoa sẽ được tất cả Bồ tát thủ hộ dưới dạng thiện tri thức gợi cho chúng ta suy nghĩ. Thiện tri thức là những người bạn giúp chúng tanhận thức tốt để tu hành. Ý này nhằm chuyển mạch từ thần lực Đà la ni khó thấy, khó hiểu đổi sang thiện tri thức có thực trên cuộc sống thực tế.

Trên bước đường tu học, chúng ta phát triển tu hành được, chắc chắn nhờ nương với vị thầy sáng suốt, đức hạnh và các bạn lành. Yếu tố này thật vô cùng quan trọng, vì không gặp minh sư bạn lành, chúng ta khó đắc đạo. Từ gia đình ra đến xã hội, những người tiến thân được đều nhờ thiện tri thức giúp đỡ. Thiện tri thức kiểu mẫu như Bồ tát Dược Vương, Dược Thượng, cho đến thiện tri thức là con, anh em, pháp lữ hỗ trợ việc tu hành cho chúng ta. Quan sát thực tế, có những gia đình cha mẹ không biết đạo, nhưng nhờ những người con có niềm tin, có đạo đức biết tu hành, khiến cha mẹ họ phát tâm tu theo.

Dưới nhãn quan của hành giả Pháp Hoa, người nào có nhân duyên căn lành chẳng những được Bồ tát mười phương gián tiếp hộ niệm, mà còn sanh lại trong gia đình họ để trợ hóa, giữ gìn tâm Bồ đề của họ không bị mất. Cốt lõi của các Ngài là Bồ tát sanh lại nên thành tựu các việc nhân gian xuất sắc. Nhưng các Ngài khác nhân gian ở điểm không bị danh lợi cám dỗ, không muốn bất cứ gì trên cuộc đời. Điển hình như vua Trần Thái Tôn, Trần Nhân Tôn rất sùng mộ đạo Phật. Hoàn thành trách nhiệm của vị nguyên thủ quốc gia xong, các Ngài an nhiên từ bỏ ngai vàng như bỏ chiếc giày rách, xem địa vị danh lợi như cỏ rác. Quan sát người ở điểm này để phân biệt, biết được họ là Bồ tát tái sanh hay là phàm phu sanh lại hưởng phước báo nhân thiên. Nếu là phàm phu, họ cố tận hưởng cho hết phước báo rồi lại bị đạp xuống. Trái lại Bồ tát tái sanh, dấn thân vì lợi lạc cho mọi người, không vì lợi riêng mình. Thành tựu xong hạnh nguyện, các Ngài từ bỏ nhẹ nhàng.

Theo bước chân của hành giả Pháp Hoa, từ gia đình cho đến xã hội, đến đâu cũng gặp người mở đường chỉ lối cho họ phát huy đạo đứctri thức. Lắng lòng sẽ thấy các thiện tri thức trong kinh Pháp Hoa mà Phật dạy chẳng ai xa lạ hơn là cha mẹ, vợ con, anh em, thân bằng quyến thuộc, bạn lữ trợ giúp chúng ta tu hành đắc đạo.

Ở đây đưa ra mẫu gia đình vua Diệu Trang Nghiêm. Thiện tri thức đầu tiên là Tịnh Đức phu nhân, bà đã khai ngộ cho vua. Tư thế của bà khai ngộ thật đặc biệt. Trong kinh ghi bà đã chứng được tam muội, hiểu được tạng bí yếu của Như Lai. Điều này chứng tỏ bà là Bồ tát lớn muốn trưởng dưỡng Bồ đề tâm của Diệu Trang Nghiêm, nên hiện thân lại đóng vai hoàng hậu và dùng ngay tư thế của vua để hoằng truyền chánh pháp.

Tịnh Đức mang danh hiệu như vậy vì đức hạnh toàn vẹn, thích cúng dường, thường tụng kinh cầu nguyện để chuyển tâm tà của vua Diệu Trang Nghiêm. Tịnh Đức tụng dưới dạng tâm, tạo được sự cảm thông với các Bồ tát và được các Ngài thọ sanh lại làm quyến thuộc.

Nguyện của bà tương ưng với hạnh chuyển tà thành chánh đạo của Bồ tát, nên được sự trợ lực của Bồ tát Dược Vương, Dược Thượng. Hai Bồ tát này sanh vào làm con dưới dạng thân Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn, để hỗ trợ cho bà Tịnh Đức trong một Phật sự hết sức quan trọng. Vì vậy hai người con có pháp Đà la ni, dù chưa được ai dạy và khai ngộ.

Biết vua ưa thích thần biến của Bà la môn và đợi đến đúng lúc, bà Tịnh Đức mới bảo hai con nên dùng thần biến cao hơn Bà La môn để chuyển đổi tâm tà của vua cha. Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn liền phô diễn thần lực bằng cách nhảy lên hư không cũng như trụ trên mặt đất. Họ chứng minh cho hàng trí thức ngoại đạo thấy sắc là KHÔNG, mà KHÔNG cũng không khác sắc, tiêu biểu cho lực vô ngại tự tại đối với các pháp hay Ta bàCực Lạc cũng như nhau. Họ đứng trên chơn đế cũng như tục đế mà xiển dương giáo lý trung đạo đệ nhất nghĩa.

Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn còn phô diễn thần lực làm cho trên thân họ ra nước, dưới thân ra lửa và ngược lại trên thân ra lửa, dưới thân ra nước. Nước và lửa đối với chúng ta hoàn toàn đối lập, không bao giờ gặp nhau. Nhưng đối với Bồ tát, lửa và nước giao nhau. Cả hai đều cùng phát xuất trong thân Bồ tát và các Ngài sử dụnghoàn toàn không chướng ngại. Đây cũng là một biểu hiện của trung đạo đệ nhất nghĩa, tiêu biểu cho hành giả Pháp Hoa làm đạo ở thế tục, tâm vẫn an nhiên giải thoát.

Thần lực thứ ba của Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn là thoạt nhiên hiện thân lớn đầy trong hư không, rồi lại hiện nhỏ, nhỏ lại hiện lớn. Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn sử dụng được pháp lấy hư không làm thân, giống như Bồ tát Hư Không Tạng. Pháp này khó diễn tả bằng ngôn ngữ. Chúng ta có thể tạm hiểu bằng cách so với khoa học ngày nay chứng minh nhiều dải ngân hà đang hiện hữu, thoạt biến mất và trở về trạng thái nguyên tử, chúng ta không thấy được. Hoặc những dải ngân hà trước đó chưa có, nhưng nay lại hiện ra, khi các nguyên tử được kết hợp lại.

Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn thi thố tài năng chứng tỏ cho vua thấy hiểu biếttài năng họ vượt hơn tu sĩ Bà la môn, khiến vua Diệu Trang Nghiêm phát tâm tu Bồ tát đạo, sau trở thành Hoa Đức Bồ tát.

Trước đó, Diệu Trang Nghiêm ưa thích và tin đạo Bà la môn, kết thân với giai cấp Bà la môn, rất ghét Sa môn. Vì Sa môn bấy giờ phần lớn tiêu cực, không chịu học, không ưng làm, chỉ giới hạn sinh hoạt của họ trong việc khất thực, ăn ngủ. Trong khi Bà la môn là giới trí thức của xã hội có khả năng nắm quần chúng, có sức hiểu biết giúp ích nhiều cho vua. Nói chung, các nhà cai trị đều thích quyền lựctrí khôn. Người nào hội đủ hai điều kiện này ủng hộ họ, tất nhiên đều được quý trọng. Sự kiện này ứng vào thời kỳ sau Phật diệt độ 500 năm. Lúc ấy đạo Bà la môn đang phát triển mạnh. Tất cả phương tiện thiện xảo của Bà la môn giúp vua Diệu Trang Nghiêm xây dựng đế chế của ông, chắc chắn ông phải nghe và ưa thích họ. Vì vậy, Phật không độ ông bằng lời giảng suông. Ngài thuyết kinh bằng phương tiện Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn.

Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn tiêu biểu cho phước đứctrí tuệ phát sanh từ Tịnh Đức phu nhân. Và cả ba Tịnh Đức, Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn cũng từ bản chất tịnh mà lưu xuất. Có thể hiểu tà kiến hay phước đức trí tuệ đều chung một điểm khởi nguồn từ thanh tịnh. Hay nói cách khác, điều động cả hai pháp tà và chánh tương ưng với nhau mới hiển bày chân thật tướng của kinh Pháp Hoa.

Thần thông của Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn do phước đứctrí tuệ kết thành, tất nhiên vượt xa thần thông ngoại đạo tà kiến. Vì nó vô cùng tận, do thực sự hiểu biết, vận dụng được quy luật, nên dễ dàng phá được thần thông của tà kiến chỉ là khôn vặt do tam độc tham sân si bày ra để chinh phục con người. Dù có tạo được thần thông này, họ cũng lại bị chính nó làm khổ.

Muốn thuyết kinh Pháp Hoa, Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí phải để cho Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn phô diễn thần lực bất tư nghì giải thoát. Thần lực của Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn không có nghĩa gì khác hơn là đạo đức ở mức độ siêu tuyệt mới chuyển hóa được tâm tà của vua.

Hình ảnh ba vị đại Bồ Tát Tịnh Đức, Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn sanh lại trong cung làm quyến thuộc trợ hóa cho vua Diệu Trang Nghiêm tương đồng với sự kiện thái tử Sĩ Đạt Ta bỏ cung điện xuất gia thành Phật mới có khả năng chuyển hóa vua Tịnh PhạnMa Ha Ba Xà Ba Đề cùng các hoàng tử khác phát tâm tu.

Đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí yên lặng, nhưng Pháp Hoa vẫn được thuyết dưới dạng Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn, Tịnh Đức. Ý này thể hiện sâu sắc tinh thần vô tác diệu lực của Phật, cải hóa tâm tà ác của bao nhiêu người mà Ngài vẫn không rời bản vị giải thoát. Pháp Hoa của Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí không phải là kinh Pháp Hoa chúng ta tụng hoài, mà không lợi ích cho ai. Pháp Hoa của Ngài hình thành bằng cuộc sống thực của ba vị Bồ tát Tịnh Đức, Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn thi thố tài năng, đức hạnh vượt hơn ngoại đạo, lợi ích cuộc đời khiến vua và mọi người phải hướng tâm đến Phật đạo. Đó là bộ kinh Pháp Hoa nằm ngoài ngôn ngữ phàm phu của chúng ta.

Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn dưới kiến giải của Thiền, tiêu biểu cho hai khả năng siêu việt thấy và làm có đủ ở ngay trong con người hành giả, nếu biết vận dụng.

Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn thưa với mẹ xin xuất gia theo Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí. Vì Phật khó gặp được như hoa Linh Thoại, như rùa một mắt ở trong biển gặp khúc cây nổi chỉ có một lỗ để chui vô. Trong biển mênh mông ví cho sự hiện hữu của Đức Phật trên cuộc đời thật hiếm có. Trong kiếp trầm luân sanh tử vô cùng tận của chúng tathế giới Ta bà, gặp được Phật quả thật rất khó. Rùa ở biển nổi lên tiêu biểu trong tứ sanh lục đạo được làm người không phải dễ. Và khúc cây có một lỗ ví cho việc chúng ta vào được cửa Phật pháp, vượt qua biển khổ sanh tử lại càng khó hơn.

Chúng sanh trong sanh tử mà gặp nhân duyên để phát tâm tu, rất khó. Vì chúng ta sanh trên cuộc đời mang thân hữu hạn, cách chân lý, cách Phật pháp rất xa. Mọi thấy biết của chúng ta đều bị lệ thuộc trong sáu căn. Tùy màu sắc của cặp kính nghiệp mình mang mà thấy muôn vàn sai khác và thường dẫn đến chỗ mọi người tự coi hữu hạn của mình là nhất.

Tịnh Tạng tiêu biểu cho phước đứcTịnh Nhãn tiêu biểu cho trí tuệ. Có phước đứctrí tuệ mới nhận chân được những gì vượt ra ngoài hữu hạn tầm thường, phát tâm tu và đắc đạo. Riêng tôi, vững bước trên đường tu hành nhờ xây dựng thế giới nội tâm kiên cố, nhận rõ được trạng thái chân thânhuyễn thân, trạng thái nghiệp và giải thoát. Nhờ đó, không để tâm chuyện áo cơm, quyền lợi hơn thua lặt vặt, ngũ dục không lôi cuốn được. Trong khi những người khác tuy muốn tu, nhưng ở trong chùa mà tâm cứ mãi ngóng trông, dõi mắt chạy theo thế giới bên ngoài, một lúc rồi cũng hoàn tục.

Theo tôi, phải say mê cuộc sống tu hành, bên trong tâm hành giả có một thế giới lý tưởng để an trú. Và từ thế giới thanh tịnh này, chúng ta bước chân vào cuộc đời. Nhìn đời qua trạng thái Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn, từng bước một thấy được sự vật bên ngoài một cách rõ ràng tỉnh táo, một cái thấy khác với người thường. Trong Đại Trí Độ luận có dẫn ví dụ một họa sĩ thấy cô gái đẹp khác với cái thấy của người tham dục hay Sa môn thấy. Sa môn hay người tu thấy qua Tịnh Tạng, không phải thấy bằng tác phẩm hay say đắm. Có một nhãn quan khác và sống khác hơn tầm thường là hai điều kiện tiên quyết để phát tâm tu. Và sau đó tạo thành những huyền bí hay quyền năng của thế giới tâm linh.

Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn biểu diễn cho vua thấy đệ tử Phật phải đạt một cái gì mà người bình thường không làm nổi. Vua mới chấp nhận và ông phát tâm tu, sanh chánh kiến. Tất cả quyền năng của Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn tạm ví như hiểu biếtviệc làm của khoa học, dùng chất này biến sang chất khác. Công việc của khoa học gia so với việc làm bằng tay chân phải đạt năng suất cao hơn.

Gặp Đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí và thiện tri thức Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn nhiều quyền năng, vua dễ dàng hạ quyết tâm tu, chánh tín xuất gia, từ bỏ những lạc thú thế gian say đắm. Vua Diệu Trang Nghiêm, Tịnh Đức, Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn và cả quần thần đều là pháp khí, mới có thể thọ trì kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Điều này thể hiện cho chúng ta thấy rõ những người thọ trì được và những người không thể thọ trì.

Người thọ trì kinh Pháp Hoa tuy có đầy đủ thú vui cuộc đời, nhưng nó không có khả năng hấp dẫn họ, khác với hạng người có đủ thú vui và luôn bị nó lôi cuốn hay những người không có mà luôn thèm khát. Hai hạng người sau không bao giờ thọ trì được kinh Diệu Pháp Liên Hoa, tuyệt đối không nên khuyên họ tu.

Vua được Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn khai ngộ và gặp Đức Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Như Lai. Gặp Phật có nghĩa là gặp một Đức Phật xuất hiện trên thế gian thực sự. Theo lịch sử chỉ có một Đức Phật Thích Ca hiện hữu chúng ta thấy biết được mà thôi.

Ngoài nghĩa này, theo kiến giải của Thiền tông, gặp Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí mang ý nghĩa trải qua quá trình tu chứng, chúng ta thấy Phật hay thấy Như Lai tâm của chính mình, không phải thấy một Đức Phật bên ngoài.

Tuy nhiên, nếu không có người khai ngộ, không có kinh điển, chúng ta không thể giác ngộ được. Nhờ Phật bên ngoài hay nói khác nhờ kinh điển, thầy hiền bạn tốt là những yếu tố gợi cho hành giả phát tâm, là đối tượng cho hành giả quan sát tiến tu. Ngài Nhật Liên dùng ví dụ chim trong lồng nghe chim bên ngoài hót, biết được bên ngoài vạn hữu bao la. Cũng như có Phật thực bên ngoài đánh thức Phật tâm bên trong của chúng ta.

Hành giả tu theo lộ trình Pháp Hoa mỗi ngày tụng kinh, tâm tự sáng ra và tự phát huy, thành Phật. Chúng ta tưởng rằng tự mình làm được việc này, nhưng theo Ngài Nhật Liên, thực sự ta tu được là nhờ nương với Phật bên ngoài, nương kinh điển, nương thiện tri thức mà phát huy Phật tâm của chúng ta.

Dưới kiến giải của hành giả Pháp Hoa, nếu có căn lành sẽ được Bồ tát lớn hay thiện tri thức đến trợ lực. Một đời hành giả phá một phần phiền não và cứ như vậy thẳng tiến lên Phật quả, không thể đi xuống. Điển hình như Diệu Trang Nghiêm sanh lại làm vua đầy đủ năm món dục lôi cuốn, thọ ngũ uẩn, liên hệ nhiều với cuộc sống hiện tại làm ông quên mất căn lành đời trước. Trong tư thế như vậy, ông dễ sanh tà kiến cao mạn, khó sửa, khó nghe theo ai. Tuy nhiên, dù khó phát tâm Bồ đề nhưng nhờ trồng căn lành đời trước nên được đại Bồ tát Dược Vương, Dược Thượng sanh làm con, làm thiện tri thức nhắc nhở, hướng dẫn ông về Phật đạo.

Vua nghe Đức Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Như Lai thuyết kinh Pháp Hoa. Ông hết sức vui mừng, mở chuỗi trân châu vô giá cúng dường Phật và được Phật thọ ký. Ông mới xuất gia tiếp tục tu trong 84 ngàn kiếp. Về điểm này, bản kinh Pháp Hoa đời Tần của Ngài Cưu Ma La Thập dịch có sự khác biệt so với bản kinh Pháp Hoa Phạn ngữ Népal. Bản Pháp Hoa Népal ghi rằng vua nghe Phật thuyết pháp xong, phát tâm xuất gia tu trải qua 84 ngàn kiếp mới cúng dường Phật và được Phật thọ ký.

Theo bản Pháp Hoa của Cưu Ma La Thập, vua cúng dường trước khi xuất gia, thì hợp lý hơn bản Pháp Hoa Népal. Vì bấy giờ ông còn làm vua nên còn đeo chuỗi trân châu. Nếu xuất gia rồi, làm Sa môn có chuỗi đâu mà cúng. Hơn nữa, bản Pháp Hoa Cưu Ma La Thập dựa trên tinh thần từ Tiểu thừa chuyển sang Đại thừa, cúng dường trước khi xuất gia để nhờ công đức này làm hạt nhân cho hành giả xuất gia.

Chuỗi trân châu của vua cúng dường Phật tự nhiên bay lên hư không, tiêu biểu cho lòng tôn kính của ông đối với Phật vô cùng tận. Đức Phật của ông thờ không phải chỉ là Đức Phật hữu hạn bằng xương thịt, mà là một Đức Phật ngồi trên tòa hư không, phẩm vật bay lên hư không vượt lên thực tế. Nói cách khác, lý tưởng của vua bay lên hiện thành đài bảy báu và có Đức Như Lai ngồi. Đây là tinh thần lý tưởng hóa thực tế của người tu Đại thừa.

Xâu chuỗi vô giá của vua tương ưng với thánh thiện của Phật, là hai lý tưởng. Nhưng hai lý tưởng này phù hợp thực tế, không phải là ảo tưởng vì ông làm vua nên xâu chuỗi ông cúng quả thật quý báu vô giá. Và ông cúng dường Phật, vì nhìn thấy rõ đôi mắt Ngài sáng, thấy vô kiến đảnh tướng của Thế Tôn phóng ánh sáng, tức thấy trí tuệđức hạnh của Phật. Ngài phát khởi niềm tin.

Vua là người có đầy uy lựcthế gian, có khả năng lãnh đạo quần chúng, tiêu biểu cho cùng tột của thế gian mới thấy được cùng tột của Phật là xuất thế gian. Dưới mắt người bình thường, ngôi vị đế vương cao quý và Phật chỉ là một Tỳ kheo tầm thường. Ngược lại, vua thấy Phật siêu tuyệt hơn ông, làm những việc ông không thực hiện nổi. Vua chỉ điều khiển được một nhóm người, cai quản trong phạm vi lãnh thổ của mình. Còn những người khác hay lãnh thổ khác trở thành đối nghịch. Trái lại, Đức Phật từ bỏ tất cả, nhưng đức hạnh Ngài chan hòa thống nhiếp muôn người, luôn cả những người đối nghịch cuối cùng cũng phải quy thuận.

Chỉ có lý tưởng của vua Diệu Trang Nghiêm mới bắt gặp được lý tưởng của Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí. Thấy rõ được trí sáng suốttâm thành kính của ông, Phật mới thọ ký cho ông.

Bản Pháp Hoa của Ngài Cưu Ma La Thập ghi Phật thọ ký cho vua Diệu Trang Nghiêm ngay khi ông vừa phát tâm. Điều này tương ứng với tinh thần sơ phát tâm thủy thành chánh giác của kinh Hoa Nghiêm. Thọ ký trước để vua Diệu Trang Nghiêm lấy đó làm hướng thực hiện lý tưởng của ông, đó là một Đức Phật ở trên hư không bằng bảy báu. Khi vua xuất gia ông mang theo 84.000 quyến thuộc tượng trưng cho 84.000 phiền não trần lao. Và trải qua 84.000 năm, ông khắc phục điều ngự được tất cả 84.000 phiền não trần lao hoàn toàn thuần thụcđạt được Nhất thiết tịnh công đức trang nghiêm tam muội.

Công việc thuận phục tất cả phiền não không phải ông mới làm trong đời này. Vô số đời trước ông đã từng thuận phục nhiều người, nên sanh lại làm vua, mới có vô số quyến thuộc. Điều này gợi cho chúng ta suy nghĩ những liên hệ hiện hữu ngày nay của chúng ta luôn có hai mặt là đối nghịch và thuận phục.

Sau khi hoàn toàn thanh tịnh, Ngài mới bay lên hư không cao 7 cây Ta La. Trong kinh Tiểu thừaĐại thừa thường dùng con số 7 mang ý nghĩa trụ trong Phật pháp tu, vượt qua tất cả những gì ràng buộc con người. Toàn bộ thế gian không còn chi phối được mới thực sự là người giải thoát, vượt sanh tử nói pháp không sanh tử cho chúng nhân nghe.

Khi đắc đạo có khả năng bay cao 7 cây Ta La, trụ trong hư không, nhìn lại quá trình tu hành của mình, Ngài mới thấy trọn vẹn giáo lý Phật thật toàn bích và thốt lên lời ca ngợi Tam Bảo.

Ngài ca ngợi Phật là đấng sáng suốt, đức hạnh, đã vẽ ra lộ trình của Ngài tu thật tuyệt diệu, dứt trừ tất cả phiền não ra khỏi sanh tử. Ngoài ra, giáo pháp Phật không thể nghĩ bàn. Trí tuệ sanh bao nhiêu, pháp theo đó tương ứng bấy nhiêu. Và Tăng đoàn hòa hợp, thanh tịnh là môi trường trong sạch hóa thân tâm Ngài.

Dưới mắt Ngài, Đức Phật quá cao cả và thánh thiện, sắp xếp của Phật quá tuyệt vời. Trong khi việc sắp xếp triều đình của Ngài trước kia chỉ là tà kiến tội lỗi. Cảm nhận sâu sắc quý báu vô giá của Phật như vậy, Ngài thốt lên những lời chân tình rằng từ nay con không dám làm theo trí của con nữa, không dám sanh lòng tà kiến mà phải nương theo Phật làm, phải có Phật chỉ đạo. Ý nghĩa kinh Pháp Hoa được rút ra từ câu chuyện vua Diệu Trang Nghiêm nhằm nói lên Phật huệ mà mỗi hành giả Pháp Hoa đều phải dùng làm hành trang xây dựng cuộc sống lợi lạc cho mình và người. Chúng hội nghe lời tán dương chí thành của một người đầy quyền uy đối trước Phật như vậy, lòng họ tự thanh tịnh, xa trần lụy, rời cấu nhiễm.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15705)
Đại Chánh Tân Tu số 0018 - Hán dịch: Ðại Sư Pháp Hiền (đời Tống), Việt Dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 16398)
Giới là nguồn cội của hết thảy Thiện pháp, là nền tảng của Tam vô lậu học và mọi quả vị Giải thoát... Nguyên tác: Lý Viên Tịnh; Thích Giác Quả dịch
(Xem: 23625)
Tại Gia Bồ Tát Giới Bổn - 3 ngôn ngữ Anh, Việt, Hoa - Nhiều Tác Giả
(Xem: 17515)
Tập Tổng quan kinh Đại Bát Niết-bàn này được chúng tôi biên soạn như một phần trong công trình dịch thuật và chú giải kinh Đại Bát Niết-bàn... Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 81358)
Kinh Nhật Tụng - Kinh Tụng Hằng Ngày
(Xem: 19614)
Kinh Trường Thọ Diệt Tội Hộ Chư Đồng Tử Đà La Ni - Đời Đường, nước Kế Tân, Tam Tạng Sa môn Phật Đà Ba Ly vâng chiếu dịch, Việt dịch: Sa-môn Thích Thiện Thông.
(Xem: 20263)
Kiền Long Đại Tạng Kinh bao gồm 168 tập, chứa đựng 1669 bộ Kinh văn... Tổng hợp Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 47471)
Bấy giờ, năm trăm công tử Ly-xa, dẫn đầu bởi Bảo Tích (Ratnākāra), mỗi người mang theo một cây lọng quý, biểu hiệu quyền quý, đến vườn Xoài cúng dường Phật... Tuệ Sỹ
(Xem: 39239)
Trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 15849)
“Vũ trụ vạn hữu bản thể luận” của Định Hy là một kiến giải nhân sinh vũ trụ trên hai phương diện bản thểhiện tượng, tuy vậy không rời tính thực dụng của Phật pháp trong đời sống tu tập... Thích Đức Trí
(Xem: 23261)
Niệm Phật Vô Tướng - Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí, Nguyên tác: Tiêu Bình Thật cư sĩ, Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 19296)
Kinh Vô Lượng Nghĩa - Tam tạng pháp sư Đàm Ma Già Đà Da Xá, người Thiên-trúc, dịch từ Phạn văn ra Hán văn tại Trung-quốc, vào đời Tiêu-Tề; Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
(Xem: 15219)
Kinh Hạnh Nguyện Phổ Hiền - Tam Tạng pháp sư Bát Nhã, người nước Kế-tân, dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào đời Đường; Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
(Xem: 16827)
Bản nầy thứ tự kinh văn số 1726 được khắc vào đời nhà Minh Vạn Lịch -Trung Quốc - và đang lưu trữ tại Báo Ân Tạng thuộc chùa Jojoji - Tăng Thượng tự - Tokyo, Nhật Bản... HT Thích Như Điển
(Xem: 13098)
Có lần Đấng Thế Tôn ngụ tại vùng của bộ tộc Thích-ca (Sakka) tại thành Ca-tì-la-vệ (Kapilavatthu) trong khu vườn Ni-câu-đà (Nigrodha).
(Xem: 13162)
Đây là những điều tôi nghe Bụt nói vào một thời mà người còn lưu trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ Đà. Hôm ấy, cư sĩ Cấp Cô Độc cùng với năm trăm vị cư sĩ khác đã tìm đến nơi cư ngụ của thầy Xá Lợi Phất.
(Xem: 49047)
Trong khế kinh, Đức Phật nói. "Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật"... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 23364)
Giới luậtsinh mệnh, là sự sống của Phật tử, nhất là của hàng Tỳ kheo thừa Như lai sứ, hành Như lai sự... HT Thích Trí Thủ
(Xem: 19451)
Ba học Giới, Định, Tuệ là những nhân tố then chốt nhất của người học Phật, như chiếc đỉnh ba chân, thiếu một tất không thể đứng vững. Nhưng giới học, hay là giới luật học, lại là căn bản nhất... HT Thích Thanh Kiểm
(Xem: 17197)
Luật Học Tinh Yếu - Muốn qua sông phải nhờ thuyền bè, muốn vượt bể khổ sinh tử phải nương nhờ Giới pháp... HT Thích Phước Sơn
(Xem: 32170)
Cúi đầu lễ chư Phật, Tôn Pháp, Tỳ-kheo Tăng, Nay diễn pháp Tỳ-ni, Để Chánh pháp trường tồn... HT Thích Trí Thủ dịch
(Xem: 27499)
Luật Tứ Phần - Việt dịch: HT Thích Đổng Minh; Hiệu chính và chú thích: Thích Nguyên Chứng, Thích Đức Thắng
(Xem: 14346)
Du Già Sư Địa Luận Thích - Trước tác: Bồ Tát Tối Thắng Tử; Hán dịch: Tam-Tạng Pháp Sư Huyền Trang; Việt dịch: Thích Tâm Châu
(Xem: 14818)
Pháp Hoa Tông Yếu, Thứ tự kinh văn số 1725 trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh do Ngài Nguyên Hiểu sọan chữ Hán, Sa Môn Thích Như Điển dịch.
(Xem: 18651)
Bộ Pháp Hoa Huyền Nghĩa xuất bản hôm nay không có một liên quan nào, về mọi phương diện, với những bộ Kinh danh đề tương tựchúng ta thấy trong Đại tạng... Chánh Trí Mai Thọ Truyền
(Xem: 16448)
Tỳ Kheo Huệ Chiểu chùa Đại Vân ở Chuy Châu sọan, Sa Môn Thích Như Điển Phương Trượng chùa Viên Giác Hannover Đức Quốc dịch từ Tiếng Hán sang tiếng Việt trên chuyến Hoằng Pháp Âu Châu năm 2013
(Xem: 13944)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, thuộc Luận Tập bộ toàn. Thứ tự kinh văn số 1663 (562-563)... HT Thích Như Điển
(Xem: 17306)
Tác Giả: Tăng Triệu Ðại Sư - Lược Giải: Hám Sơn Ðại Sư; Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 19417)
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú - Do HT Thích Như Điển dịch Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh
(Xem: 28075)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử tiếp tục truyền bá giáo lý của ngài trong nhân gian. Đồng thời, để bảo đảm giáo lý của ngài một cách trung thực cho hậu thế, họ đã gom lại kết tập để soạn thành một tập toàn bộ kinh điển.
(Xem: 14421)
Toàn thể đại dụng, thu nhiếp xưa nay ngay trên đường; dứt trí tuyệt ngu, vật và ta ngang bằng nơi kiếp ngoại ... HT Thích Thiện Siêu
(Xem: 16971)
Luận về Pháp Hoa Kinh An Lạc Hạnh Nghĩa - Phiên dịch, chú giải: Daniel B. Stevenson & Hiroshi Kanno - Phiên dịch, thi hóa: Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm
(Xem: 22209)
Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ, bao gồm nghĩa lý thâm thiết để cởi mở nghiệp khổ cho chúng sanh... HT Thích Thiện Siêu dịch
(Xem: 23352)
Thiện nam tử! Có một loại pháp Bồ tát nên diệt trừ. Ðó là pháp tham. Thiện nam tử ! Ðây là một pháp phải nên diệt trừ vĩnh viễn.
(Xem: 28056)
Bộ kinh Lăng Nghiêm Tông Thông này được Ngài Thubten Osall Lama, tức Nhẫn Tế thiền sư, Đức Sơ Tổ Tây Tạng Tự, dịch và chú thích thêm từ bản Hán văn sang Việt văn...
(Xem: 64901)
Một thuở nọ Thế-tôn an-trụ Xá-vệ thành Kỳ-thụ viên trung, Mục-liên mới đặng lục-thông, Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm-luân.
(Xem: 33273)
Thế Tôn, nếu con nghĩ rằng con đắc đạo A La Hán, thì Thế Tôn chẳng nói Tu Bồ Đề là một hành giả thanh tịnh hạnh. Vì Tu Bồ Đề vốn là vô sở hành...
(Xem: 40225)
Tam thế chư Phật, chư Đại-Bồ-tát, thật chứng và nhập một với Pháp-giới-tính nên phát-khởi vô-duyên đại-từ, đồng-thể đại-bi, hiện ra vô số thân, theo duyên hóa-độ vô-lượng vô-biên chúng-sinh...
(Xem: 25164)
Luật nghi của Đức Thế Tôn chế định vì bảo hộ Tăng-già, thanh qui của Tùng Lâm đặt định để thành tựu pháp khí cho già lam, pháp thức hành trì cho cư gia phật tử để xây nền thiện pháp...
(Xem: 50284)
Khi bạn tiếp tục tiến tới trên đạo lộ một cách đúng đắn, với ý định trở thành một con người giác ngộ, bạn phải kiểm soát tâm theo đúng cách...
(Xem: 38594)
Sách này thâu kết lời giảng của đức Đalai Lama về bài kinh ngắn mang tựa đề Bát Nhã Tâm Kinh, một trong những bộ kinh Phật giáo Ðại thừa quý giá nhất.
(Xem: 27368)
Kinh Trường Bộ thi hóa (3 tập) - Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli - Chuyển thể Thơ: Giới Lạc Mai Lạc Hồng
(Xem: 28626)
Trọng tâm cứu khổ của Ngài Quán Thế Âm nhằm giải thoát sự khổ tâm, khổ tinh thần. Một khi con người đã giải thoát khổ tinh thần thì thân thể sẽ lành mạnh.
(Xem: 52284)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 35931)
Địa Tạng Bồ Tát Bản Tích Linh Cảm Lục - Liêu Nguyên dịch, Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 32941)
Kinh Kim Cương lấy vô tướng làm tông, vô trụ làm thể, diệu hữu làm dụng. Từ khi Bồ-đề Đạt-ma đến từ Tây Trúc truyền trao ý chỉ kinh này khiến người đời ngộ lý đạo, thấy tính.
(Xem: 50895)
Sự giải thoát tinh thần, theo lời dạy của Ðức Phật, được thành tựu bằng việc đoạn trừ các lậu hoặc (ô nhiễm trong tâm). Thực vậy, bậc A-la-hán thường được nói đến như bậc lậu tận...
(Xem: 74959)
Kinh chữ Hán - ĐĐ. Thích Hạnh Phú sưu tầm & biên soạn
(Xem: 36186)
Sắc là vô thường. Vô thường tức là khổ. Khổ tức là chẳng phải ta. Cái gì chẳng phải ta thì cũng chẳng phải sở hữu của ta. Quán sát như vậy gọi là chân thật chánh quán.
(Xem: 49037)
Người nhất tâm nghe kinh có hai hạng: nghe rồi thọ trì pháp và nghe rồi không thọ trì pháp. Người nghe rồi thọ trì pháp là hơn, người nghe rồi không thọ trì pháp là kém.
(Xem: 31050)
Nếu dùng hình sắc để thấy ta, Dùng âm thanh để cầu ta, Người nầy hành tà đạo, Chẳng thể thấy Như Lai... HT Thích Như Điển
(Xem: 33984)
Kinh Bại Vong (Parabhava-sutta) rút từ Tập Kinh (Suttanipata), kệ số 91-115, trang 18-20, Pali Text Society... HT Thích Thiện Châu dịch
(Xem: 28952)
Trải qua nửa thế kỷ thuyết pháp độ sinh, Ðức Ðạo sư đã hóa độ đủ mọi hạng người, không phân biệt màu da, chủng tộc, giai cấp, sang hèn... Thích Phước Sơn
(Xem: 58878)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 46304)
“Ðức Thế Tôn nghe Phạm vương ba lần ân cần thưa thỉnh, liền dùng Phật nhãn soi khắp thế giới chúng sanh, thấy sự ô nhiễm của chúng sanh có dày có mỏng...
(Xem: 43861)
Khi Đức Phật nói danh hiệu chư Phật đời quá khứ, có mười ngàn Bồ Tát, được Vô sinh nhẫn, tám trăm Thanh Văn, phát thiểu phận tâm, năm ngàn Tỷ khưu...
(Xem: 43255)
Kinh vừa là Kinh Phật, lại vừa là miệng Phật. Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã...
(Xem: 45981)
Này các Kàlàmà, chớ có tin vì nghe báo cáo, chớ có tin vì nghe truyền thuyết; chớ có tin vì theo truyền thống; chớ có tin vì được kinh điển truyền tụng...
(Xem: 48066)
Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Trọn bộ 11 tập - 600 cuốn; Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: HT Thích Trí Nghiêm
(Xem: 63788)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant