Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

05. Quy Luật Của Nghiệp

08 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 10106)
05. Quy Luật Của Nghiệp

GIÁO TRÌNH PHẬT HỌC
(BUDDHISM COURSE)
Chan Khoon San
Biên dịch: Lê Kim Kha
Nhà xuất bản PHƯƠNG ĐÔNG 2011

V

QUY LUẬT CỦA NGHIỆP

(Kamma)

NỘI DUNG

01 Năm Quy Luật Của Vũ Trụ
02 Sự Quan Trọng Trong Việc Hiểu Biết Quy Luật Của Nghiệp
03 Nghiệp (Kamma) Là Gì?
04 Quy Luật Của Nghiệp Vận Hành Ra Sao?
05 Cái Gì Là Nguyên Nhân Của Nghiệp?
06 Ai Là Người Thi Hành Nghiệp? Ai Là Người Nhận Lãnh Nghiệp Quả (Vipaka)?
07 Tất Cả Nghiệp Chứa Ở Đâu?
08 Phân Loại Nghiệp
09 Phải Chăng Một Người Nhận Lãnh Một Phần Nào Đó Của Tất Cả Nghiệp Người Đó Đã Tạo Ra?
10 Những Bài Học Rút Ra Từ Nghiệp
11 Chú Giải
Sách & Tài Liệu Tham Khảo

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

1. Năm Quy Luật Của Vũ Trụ

 

Trong Phật giáo, có 5 tiến trình hay 5 quy luật (Niyamas) của vũ trụ vận hành trong những cõi thuộc về vật chấttâm linh. Đó là:

 

a) Utu Niyama: Tiến trình nhiệt hay vật lý vô cơ, ví dụ như: sự thay đổi theo mùa của thời tiết, bản chất của nhiệt, năng lượng, những phản ứng hóa học…

 

b) Bija Niyama: Tiến trình Gen hay tiến trình sinh thực là tiến trình vật lý hữu cơ, ví dụ như: lúa từ hạt lúa mầm, vị ngọt của đường mía, những sự phát triển khác nhau của thực vật, di truyền học và DNA của động vật…

 

c) Kamma Niyama: Tiến trình Nghiệp về đạo đức hay nhân quả. Những hành động thiện và bất thiện (nhân) tạo ra những kết quả tốt và xấu tương ứng.

 

d) Citta Niyama: Tiến trình Tâm hay quy luật về Tâm linh, ví dụ như: tiến trình tâm (Thức), năng lực của tâm, đọc tâm hay sự giao tiếp của tâm (Cetopariyaya Nana)[1], sự nhớ biết những kiếp quá khứ, thiên nhãn, năng lực thần thông…

 

e) Dhamma Niyama: Tiến trình Pháp, ví dụ những hiện thượng tự nhiên xảy ra khi một vị Bồ-tát ra đời, xuất hiện, lực trọng trường và những và những quy luật thiên nhiên khác.

 

Mọi hiện tượng về vật lýtâm linh đều có thể được giải thích bằng 5 tiến trình hay 5 quy luật này, vận hành và diễn ra trong chính bản thân chúng. Nghiệp (Kamma) cũng thuộc một trong 5 tiến trình, trật tự này, nó không cần có người cho, người thi hành, người ép, bởi vì đơn giản chúng thuộc về những quy luật tự nhiên.

 

 

 

 

2. Sự Quan Trọng Của Việc Hiểu Biết Quy Luật Nghiệp (Kamma)

Quy Luật Nghiệp (Kamma) là một học thuyết cơ bản, nền tảng của Phật Giáo. Mặc dù niềm tin về Nghiệp này đã có mặt ở Ấn Độ trước khi Đức Phật ra đời, nhưng chính Đức Phật đã giảng dạy và đã hoàn chỉnh học thuyết này ta có ngày hôm nay.

 

Vì không hiểu nổi sự khác biệt nhau giữa những con người, một Bà-la-môn trẻ tên là Subha đã đến gặp Đức Phật và nhờ Phật giải thích nguyên nhân của sự bất tương đồng này: Nguyên nhân và những điều kiện nào mà loài người có người ưu, người nhược, người hơn, người kém? Có người sống lâu, có người chết trẻ, có người bệnh yểu, có người khỏe mạnh, có người đẹp, có người xấu, có người có quyền, có người không có quyền, có người nghèo, có người giàu, có người đẻ ra hạ tiện, có người đẻ ra cao quý, có người ngu, có người khôn?

 

Đức Phật trả lời rằng:

 

Tất cả chúng sinh đều là chủ nhân của những hành động của mình (kammasaka), là người thừa hưởng của những hành động của mình (kammadayada), chúng sinh khởi sinh (đầu thai) từ những hành động của mình (kammayoni), chúng sinh đều liên quan với những hành động của mình (kammabandhu), có những hành động của mình làm nơi nương tựa cho mình (kammapatisarana). Đó là hành động (Nghiệp, kamma) làm cho chúng sinh hơn kém, khác nhau”.

 (“Trung Bộ Kinh”-Majjhima Nikaya Sutta No. 135, Kinh Culakammavibhanga).

 

Trong quyển Expositor (“Luận giảng Vi Diệu Pháp”, Tr. 87), có ghi rằng:

 

“Tùy thuộc vào sự khác nhau về Nghiệpxuất hiện những sự khác nhau về vận mệnh của những loài chúng sinh không có chân, có hai chân, bốn chân, nhiều chân, có nhận thức (hữu tình) hay không có nhận thức (không hữu tình)”.

 

Tùy thuộc vào sự khác nhau của Nghiệp mà xuất hiện những sự khác nhau về sự sinh ra những loài chúng sinh, cao và thấp, thấp hèn và cao quý, sung sướng và đau khổ”.

 

Tùy thuộc vào sự khác nhau của Nghiệp xuất hiện những sự khác nhau về tướng nét của những chúng sinh đẹp và xấu, sinh ra cao quý và hạ tiện, lành mạnh và tật nguyền”.

 

Tùy thuộc vào sự khác nhau của Nghiệp xuất hiện những sự khác nhau về những điều kiện thế gian (duyên trần) của chúng sinh, như là được và mất, vinh và nhục, khen và chê, sung sướng và đau khổ”.

 

Vì vậy theo quan điểm của Phật giáo, những sự khác nhau trước mắt trong chúng ta về tinh thần, đạo đức, trí khônthể cách, phần lớn là xuất phát từ những hành động (Nghiệp) và thiên hướng của chúng ta, cả trong quá khứhiện tại. Mặc dù Phật Giáo đã đóng góp thêm phần phân tích những biến hóa của Nghiệp (kamma) là nguyên nhân chính yếu trong những biến hóa khác, tuy nhiên cần phải nói thêm rằng Phật Giáo không quả quyết rằng tất cả mọi sự đều chỉ do một mình Nghiệp (kamma) gây ra.

 

Quy Luật về Nghiệp (Kamma) thì rất quan trọng như đã giải bày, nhưng nó chỉ là một trong 24 điều kiện được mô tả trong những mối quan hệ Nhân Duyên ghi trong “Bộ Vị Trí” (Patthana) của “Vi Diệu Pháp Tạng” (Abhidhamma). Đây là bộ lớn nhất, luận giải chi tiết về Nhân Duyên và tương quan giữa các hiện tượng, gồm 4 “Phẩm” (tập) lớn.

 

 

 

 

3. Nghiệp (Kamma) Là Gì?

 

Theo tiếng Pali, từ Nghiệp (kamma), (tiếng Phạn: karma), có nghĩa gốc là hành động hay sự làm, việc làm. Nhưng Nghiệp ở đây là chỉ những hành động cố ý, hành động có ý chí, bao gồm ý nghĩ (tâm), lời nói (miệng) và việc làm (thân). Nên có một số học giả cũng gọi “Thân, Ý, Miệng” hay “ý nghĩ, lời nói và hành động” là 3 Nghiệp.

 

Nói chung, tất cả những hành động tốt và xấu đều tạo nghiệp. Nói theo nghĩa rốt ráo, thì nghiệp (kamma) có nghĩa là những “Hành” hay “Tâm Hành thiện và bất thiện (kusala- akusala cetana).

 

Trong Tăng Chi Bộ Kinh (Anguttara III, 415), Đức Phật đã dạy:

Ta tuyên bố, này các Tỳ Kheo, Ý Hành (cetana) là Nghiệp (kamma). Theo ý chí của mình, một người đã hành động thông qua thân, lời nói, và ý nghĩ”.

 

▪ Xem thêm Chú Giải 1 về Ý Hành[2] (cetana).

 

Những hành động không tự nguyện, không cố ý hay không cố ý thức, mặc dù rõ ràng cũng là những hành động, thì không tạo Nghiệp, bởi vì ở đây không có sự cố ý, ý chí tạo tác, tức là yếu tố Hành, một yếu tố để định ra Nghiệp. Không có ý chí, một hành động là “Trơ”.

 

Nghiệp (kamma) không phải là “số phận” hay “Định mệnh” đã định trước và được áp đặt lên chúng ta bởi một thế lực hay đấng siêu nhiên bí mật nào. Nghiệp là những hành động của mọi người tương tác tạo ra những nghiệp quả tương ứng, và vì vậy, một người có thể thay đổi Nghiệp hay tiến trình Nghiệp của mình bằng những cách khác nhau. Việc chuyển nghiệp được bao nhiêu, nhiều hay ít, đều do nỗ lực bản thân của mỗi người. Vì vậy, chúng ta đều có một số “ý chí” tự do để mà đổi nghiệp, chuyển nghiệp theo mong ước. Quá khứ sẽ tác động đến tương lai, nhưng quá khứ không hoàn toàn quyết định hết tương lai, bởi vì Nghiệp (kamma) đã bao gồm cả những hành động trong quá khứ và cả tương lai.

 

(Chẳng hạn trong quá khứ bạn đã làm nhiều hành động ác xấu, bất thiện, thì chắc chắn theo luật nhân quả hay nghiệp quả, bạn phải nhận lãnh hệ quả xấu trong hiện tại và tương lai. Hiện tại cũng là tương lai của quá khứ.

 

Nhưng nếu trong hiện tại hay tương lai gần bạn đã hối cải, tu tậpthực hiện những hành động tốt, thiện, thì chắc chắn, cũng theo quy luật nhân quả, bạn sẽ nhận lãnh những hệ quả tốt đẹp trong tương lai gần hoặc tương lai. Tuy nhiên, những hành động tốt, thiện hiện tại hay tương lai gần này chưa chắc đã có thể chuyển đổi được hết những nghiệp bạn đã gây ra trong quá khứ. Vì Nghiệp quả của bạn bị chi phối bởi cả những hành động hiện tại, tương lai và cả quá khứ - ND).

 

 

 

 

4. Quy Luật Nghiệp (Kamma) Vận Hành Như Thế Nào?

 

Kamma là hành động, là Nghiệp, Vipaka là quả, là nghiệp Quả. Kamma nguyên nhânvipakatác động, là Quả. Theo quy luật về Nghiệp, thì mọi hành động cố ý, có ý thức đều được đi kèm những tác động hệ quả của chúng.

 

Tương Ưng Bộ Kinh (Samyutta Nikaya I, 227) có ghi chép rằng:

“Gieo hạt gì, thì gặt quả đó.

Người làm điều lành, thì gặt quả lành.

Người làm điều ác, thì gặt quả ác.

Gieo trồng hạt gì, thì sẽ nếm vị quả đó”.

 

Nghiệp (Kamma) bản thân nó là một quy luật, nên nó vận hành, hoạt động trong ‘sân chơi’, ‘trong lĩnh vực hoạt động’ của nó và không phụ thuộc vào sự can thiệp hay định đoạt hay điều khiển của một thế lực bên ngoài nào cả. Quy luật về Nghiệp vận hành theo những cách thức như sau:

 

(a) Tất cả những hành động (nghiệp) bất thiện, thì tạo ra kết quả bất thiện. Có 10 nghiệp bất thiện, đó là: (thân) sát sinh, trộm cắp, tà dâm; (miệng) nói dối, nói lời vu khống, nói lời chửi mắng, nói chuyện tầm phào; (ý) tham lam, sân hận, si mê.

 

(b) Tất cả những hành động (nghiệp) thiện, thì tạo ra kết quả thiện. Việc kiêng cử, không làm 10 hành động (nghiệp) bất thiện trên đây, có nghĩa đã làm hay tạo nghiệp thiện. 

 

(c) Bên cạnh đó, có 10 công hạnh để tạo ra những công đức, đó là: Bố thí, giới hạnh, thiền tập, kính trọng (bất khinh), phục vụ, chuyển nhượng hay hồi hướng công đức, hoan hỉ công đức của người khác, chỉ dạy giáo Pháp (Dhamma), lắng nghe giáo Pháp (Dhamma) và tạo lập chánh tri kiến. (Xem thêm Chương XI).

 

(d) Ai làm thì người ấy nhận lãnh. Một người có ý thức hành động hay tạo nghiệp thiện/bất thiện, thì người đó nhận lãnh nghiệp quả thiện/bất thiện. Không thể một người này hành động hay tạo nghiệp thiện/bất thiện và một người khác nhận lãnh nghiệp quả thiện/bất thiện đó.

 

(e) Để suy đoán từng nghiệp thiện hay bất thiện, chúng ta có thể xem xét 4 lĩnh vực tác động của nghiệp (kamma), đó là: 

1) Do chính mình làm,

2) Xúi giục người khác làm,

3) Làm theo, nghe theo sự xúi giục của người khác, và

4) Đồng tình, tán thưởng một hành động.

 

 

 

 

5. Cái Gì Là Nguyên Nhân Của Nghiệp (Kamma)?

 

Vô Minh (avijja) hay “sự không hiểu biết những sự vật như chúng là” là nguyên nhân chính yếu của Nghiệp (kamma). Tùy thuộc vào/do có Vô Minh mà khởi sinh ra những Hành Động Cố Ý/Hành (sankhara)” hay ngắn gọn hơn là: “Vô Minh duyên Hành’ như đã ghi rõ trong vòng Duyên Khởi (Paticca Samuppada). Cùng với Vô Minh, đồng minh của nó là Tham Muốn, Dục Vọng lại là một nguyên nhân gốc rễ khác của Nghiệp (kamma). Tất cả những hành động bất thiện đều do 2 nguyên nhân này mà ra.

 

Tất cả những hành động tốt, thiện của một người phàm tục, mặc dù được đi kèm với những 3 căn rễ rộng lượng (bố thí), từ bitrí tuệ, cũng vẫn được xem là nghiệp (tạo nghiệp), vì 2 yếu tố Vô MinhDục Vọng vẫn còn ở trong những hành động đó. Nghiệp (kamma) chỉ không còn được tích lũy ở những ai đã dập tắt hay quét sạch Vô MinhDục Vọng và đã hiểu biết rõ “mọi sự vật như chúng la”.

 

Những vị Phật và những bậc A-la-hán không còn tích nghiệp vì họ đã nhổ sạch tận gốc Vô MinhDục Vọng, 2 nguyên nhân gốc tạo ra nghiệp:

Họ đã tiêu diệt mầm móng, tham dục không còn lớn lên được” (Te khina bija, avirulhicchanda. - Đoạn 14, Kinh Châu Báu -Ratana Sutta).

 

Mặc dù Hành (tạo tác) luôn luôn hiện diện trong mọi hành động, lời nói, ý nghĩ, nhưng trong trường hợp của A-la-hán, Hành không có đi kèm bởi Dục Vọng vào cuối những sát-na thúc đẩy, nên nó (Hành) hoàn toàn biến mất không để lại một dấu vết nào và cũng không chuyển thành nghiệp (kamma). Vì thế, nên không còn dẫn đến tái sinh đối với A-la-hán. Tuy nhiên, họ vẫn còn phải nhận lãnh những kết quả của những nghiệp trong quá khứ, vì trong quá khứ, các nghiệp đó đã được tạo rồi.

 

 

 

 

6. Ai Là Người Thi Hành Nghiệp (Kamma)? Ai Là Người Nhận Lãnh Nghiệp Quả (Vipaka)?

 

Câu trả lời được ghi trong quyển “Visuddhi Magga” (Thanh Tịnh Đạo):

 Không có người tạo nghiệp” 

Cũng không có kẻ nếm nhận nghiệp quả”.

 

Theo Phật giáo, luôn luôn có 2 loại sự thật hay 2 chân lý:

- Sự thật truyền thống hay ước lệ của thế gian (Tục đế); và

- Sự thật tuyệt đối (Chân đế).

 

Theo truyền thống thế gian, những danh từ ước lệ như đàn ông, đàn bà, thú vật, ‘con người’, cái ‘Tôi’ và nhiều nữa. Nhưng đúng trong thực tại chân đế, thì không có những cái ‘Tôi’ hay bản ngã bất biến hay bất kỳ một thực thể sống nào ở dạng một ‘con người’, đàn ông, đàn bà hay bất kỳ một bản ngã trường tồn nào cả. một dạng hay thực thể ‘thoáng qua’ bao gồm những quá trình vật chấttinh thần (danh sắc) luôn luôn thay đổi, luôn luôn biến đổi trong từng lập tức, trong từng sát-na, và không bao giờ là một cái gì tồn tại giống nhau trong 2 chập khoảng khắc hay sát-na liên tục. Cái được gọi là một ‘thực thể sống’ hay một ‘con người’ chỉ là một sự kết hợp của Năm tập hợp Uẩn (khandas), gồm Sắc uẩn, Thọ uẩn, Tưởng uẩn, Hành uẩnThức uẩn. Không có một người nào làm ra hành động bên cạnh hành động (nghiệp), không có người nghĩ đằng sau ý nghĩ. Vậy ai là người làm ra nghiệp hay thực hiện Nghiệp? Ai nhận lãnh tác động hay hậu quả của Nghiệp.

 

Ý chí hay Hành (cetana) tự thân là tác nhân.

Còn Cảm Thọ (vedana) cảm giác hậu quả hay tác động.

 

Bên cạnh quá trình hay tiến trình tâm này, không ai có gieo hạt nghiệp hay có ai gặt hái quả hết. Vì vậy, Nghiệp (kamma) không phải là do một bản ngã hay linh hồn tác động vào, bởi vì không có cái gọi là một ‘bản ngã’ hay một ‘linh hồn’ thường hằng, bất biến.

 

 

 

 

7. Tất Cả Nghiệp Chứa Ở Đâu?

 

Một hành động hay Nghiệp (kamma) một khi hay ngay khi đã làm, thì đã hình thành Nghiệp. Nghiệp không thể hủy ngược hay đảo ngược được. Sự hành động là một tiềm năng của nó, đó là hậu quả không thể tránh được: Nghiệp Quả (vipaka). Ngay trong một kiếp thôi, một người có thể làm nhiều việc thiệnbất thiện. Vì thế, chắc chắn người ấy đã tích lũy rất nhiều Nghiệp (kamma). Một câu hỏi thông minhlý thú là: Vậy tất cả những Nghiệp đó được chứa hay tích tụ ở đâu?. Để trả lời câu hỏi này cho Vua Milinda, ngài Nagasena đã giảng giải như sau:

 

Nghiệp (Kamma) không phải được chứa trong cái Thức thoảng hiện thoảng mất hay trong chỗ nào của thân này. Nhưng tùy thuộc vào Tâm và Thân, nó chọn chỗ, biểu hiện nó vào khoảng khắc hợp thời nhất, cũng như không phải nói những trái xoài được tích chứa ở đâu trong cây xoài, nhưng tùy thuộc vào cây xoài chúng nằm, mà đơm trái theo đúng mùa.

 

Tương tự như vậy, lửa không phải được chứa trong diêm quẹt, nhưng dưới tác động ma sát thích hợp, diêm quẹt sẽ tạo ra lửa. Nghiệp (Kamma) là một “tiềm năng” có thể được chuyển từ kiếp sống này sang kiếp sống khác.

 

 

 

 

8. Phân Loại Nghiệp (Kamma)

 

Nghiệp (Kamma) được phân thành 4 loại tùy theo chức năng của nó, thứ tự ưu tiên của quả, thời gian tạo quả và cảnh giới hay cõi nào xảy ra nghiệp quả.

 

a) Chức Năng

Có 4 loại Nghiệp tùy theo chức năng của nó. Mỗi lần sinh hay tái sinhtùy thuộc vào điều kiện của nghiệp tốt xấu trong quá khứ biểu hiện hay quyết định vào khoảng khắc hay ngay lúc chết. Nghiệp làm điều kiện (duyên) cho tái sinh kiếp sau gọi là Nghiệp Tái Sinh.

 

Có thể có những nghiệp khác can thiệp hay duy trì làm suy yếucản trở sự tạo quả của Nghiệp Tái Sinh. Những Nghiệp như vậy được gọi là Nghiệp Hỗ Trợ hay Nghiệp Cản Trở.

 

Theo quy luật về Nghiệp, nguồn năng lực tiềm năng của Nghiệp Tái Sinh, có thể bị hoàn toàn bãi bỏ hay thủ tiêu bởi một nghiệp nghịch chiều mạnh hơn trong quá khứ, nó tìm cơ hội hoạt động bất ngờ, như là một nguồn lực đối kháng có thể làm cản trở đường bay của một mũi tên. Hành động, tác động như vậy được gọi là Nghiệp Tiêu Diệt, nó mạnh hơn 2 loại nghiệp hỗ trợ và nghiệp cản trở kia, vì nó không chỉ cản trở, mà còn tiêu diệt toàn bộ nghiệp lực ngược chiều

 

 

b) Thứ Tự Ưu Tiên Tạo Quả

Đầu tiên là Nghiệp Nặng (Garuka kamma), chắc chắn nó sẽ gây ra quả ngay trong kiếp này hoặc kiếp kế tiếp. Trong số những nghiệp nặng hay nghiệp nghiêm trọng, những nghiệp thiện là những cảnh giới Thiền Định (Jhanas), những nghiệp ác là 5 tội ác lớn, đó là: Tội giết mẹ, Tội giết cha,Tội giết bậc A-la-hán, Tội hãm hại Phật, Tội gây chia rẽ Tăng Đoàn.

 

Nếu không có mặt Nghiệp Nặng để tạo điều kiện tái sinh, thì một Cận Tử Nghiệp có thể hoạt động. Nghiệp này làm cho một người nhớ đến lập tức trước ngay khi cổng chết. Bởi vì ý nghĩa của nghiệp này là tạo quả tái sinh kiếp sống tương lai, ở những nước Phật giáo có những thói quen nhắc nhở người sắp chết hồi tưởng lại những điều tốt đẹp, những nghiệp thiện người ấy đã làm khi trước đó và giúp người ấy nghĩ hoặc làm những nghiệp thiện trước khi chết.

 

Nghiệp Thói Quen hay Quán Tính là nghiệp có thứ tự ưu tiên thứ hai khi Nghiệp Nặng không có. Đó là những hành động thường xuyên được thực hiện trong quá khứ, là những hành động mà người ấy luôn luôn thích làm và luôn nhớ đến.

 

Cuối cùng, nghiệp ưu tiên thứ ba khi không có Nghiệp NặngNghiệp Tích Lũy. Nghiệp Tích Lũy bao gồm tất cả những nghiệp còn lại, trừ 3 nghiệp đi đầu ở trên. Nghiệp này giống như một kho lưu trữ hay số tiền dự trữ của một người vậy.

 

 

c) Thời Gian Tạo Nghiệp Quả

Có rất nhiều nghiệp tạo ra những nghiệp quả trong kiếp này, hay kiếp sau hay bất kỳ kiếp sống nào trong suốt quá trình lang thang, trôi giạt trong vòng luân hồi, sinh tử của một người. Có những nghiệp có hậu quả tức thì, Nghiệp Quả hay Quả Báo Nhãn Tiền; Nghiệp Quả Tiếp Nối (xảy ra sau đó) và Nghiệp Quả Bất Định (không biết xảy ra lúc nào). Khi những nghiệp lẽ ra tạo nghiệp quả trong kiếp này hay kiếp sau nhưng không xảy ra, thì chúng được gọi là những Nghiệp Vô Hiệu, tức không tác động tạo quả.

 

 

d) Cảnh Giới Xảy Ra Nghiệp Quả

Phân loại cuối cùngdựa vào cảnh giới hay cõi nào mà nghiệp quả xảy ra, đó là:

 

i) Những Nghiệp bất thiện chín muồi, tạo quả ở những cõi Dục Giới (Kamaloka) nhiều khổ ải, như là: cảnh giới địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ và yêu quái.

 

ii) Những Nghiệp thiện chín muồi, tạo quả ở những cõi Dục Giới (Kamaloka) nhiều hạnh phúc hơn, đó là cảnh giới con người và 6 cảnh giới chư thiên, trời thần. Trong Vi Diệu Pháp tạng (Abhidhamma), những Nghiệp thiện này là 8 loại (tâm) Thức thiện (sobhana citta) thuộc về Dục Giới. (Xem thêm Chương XI, 2).

 

iii) Những Nghiệp thiện chín muồi, tạo quả ở cảnh trời Sắc Giới (Rupaloka) của các trời Phạm Thiên (Brahmas), có hình sắc. Đó là những cảnh giới thiền định hay những tầng thiền Sắc Giới (rupa-jhanas), đó là: Cảnh Giới Sơ Thiền, Thứ Hai, thứ Ba và thứ Tư, như đã mô tả trước đây.

 

iv) Những Nghiệp thiện chín muồi, tạo quả ở cảnh trời Vô Sắc Giới (Arupaloka) của các trời Phạm Thiên (Brahmas), nhưng không có hình sắc. Đó là những cảnh giới thiền định hay những tầng thiền Vô Sắc Giới (arupa-jhanas), đó là: Xứ Hữu Không Vô Biên, Xứ Thức Vô Biên, Xứ Vô Biên và Xứ Phi Tưởng Phi Phi Tưởng (tức không có nhận thức và cũng không khôngnhận thức).

 

 

 

 

9. Phải Chăng Một Người Nhận Lãnh Một Phần Nào Đó Của Tất Cả Nghiệp Người Đó Đã Tạo Ra?

 

Trong quy luật Nghiệp đã chỉ rõ rằng: chúng ta gặt thứ chúng ta gieo trồng, hay là chúng ta gieo nhân nào thì gặt quả nấy, thì vẫn có một mảng vấn đề khác về Nghiệp, cũng rất là quan trọng, đó là: Nghiệp Quả có thể được sửa đổi hay cải tạo. Điều này có nghĩa là quy luật về Nghiệp và Quả không phải hoạt động cứng nhắc như một cỗ máy, mà cho phép sửa đổi, chỉnh sửa hay cải tạo trong khi tạo quả. Đây là một khía cạnh “năng động” của Nghiệp mà Đức Phật đã giảng dạy trong Tăng Chi Bộ Kinh (Anguttarra I, 249) như sau:

Nếu có ai nói rằng một người phải nhận lãnh tất cả những gì do những nghiệp của người đó tạo ra, thì trong trường hợp này không có đời sống tâm linh và cũng không có cơ hội nào dập tắt hay trừ diệt hết đau buồn (phiền não)”.

 

Nhưng nếu có ai nói rằng những gì một người nhận lãnh là tương xứng với những nghiệp người đó tạo ra, thì trong trường hợp đó có đời sống tâm linh và có được cơ hội để trừ diệt hết đau buồn (phiền não)”.

 

Với những lời dạy này, Đức Phật muốn nói với chúng ta rằng, Nghiệp không phải là ‘Số Phận’ hay ‘Định Mệnh’ đã an bài. Nhưng cũng không phải nghĩa là một người chỉ phải nhận lãnh một phần nào đó của tất cả nghiệp mà người đó đã tạo ra. Chúng ta có thể giải thích điều này bằng hình ảnh trái bi-da, hướng của trái bi có thể được thay đổi hoặc thậm chí bị dừng lại, nếu một trái bi khác được đánh đến để tác động vào nó theo một gốc hay lực thích hợp nào đó, theo ý của người chơi.

 

Cũng như bất kỳ sự kiện vật lý nào, tiến trình tâm kết thành những hành động tạo nghiệp không phải tồn tại một cách đơn độc. Vì thế công năng tạo nghiệp quả của một nghiệp không phải chỉ phụ thuộc vào tiềm năng của những nghiệp khác. Chúng ta có thể tưởng tượng để thấy rằng, một Nghiệp riêng biệt nào đó, dù là thiện hay bất thiện, đôi lúc có thể được gia trọng hay được tăng mạnh hơn bởi Nghiệp Hỗ Trợ hoặc có thể bị giảm thuyên hay bị làm yếu đi bởi Nghiệp Cản Trở hay thậm chí bị tiêu diệt hay xóa sổ bởi Nghiệp Tiêu Diệt. Tiến trình tạo ra nghiệp quả cũng có thể bị chậm lại nếu không đủ duyên hay những điều kiện để quả chín muồi, và sự chậm trễ này có thể lại tạo cơ hội cho các Nghiệp Cản Trở hay Nghiệp Tiêu Diệt hoạt động can thiệp vào nữa.

 

Bên cạnh những điều kiện bên ngoài hay ngoại duyên, thì bản chất tâm linh của tâm, là nơi khởi sinh các Hành hay hành động tạo nghiệp, có thể cũng tác động vào quá trình xảy ra nghiệp quả. Người có nhiều đạo đức hoặc những phẩm chất tâm linh tốt thì một ‘tội lỗi’ gây ra có thể sẽ không dẫn đến nghiệp quả nặng, nhưng đối với những ngươi thiếu phẩm chất đạo đức và phẩm chất tâm linh, thì thường một ‘tội lỗi’ có thể tạo nhanh thành nghiệp quả nặng cho người ấy, vì người này không có được những đức hạnh và tâm thiện để bảo vệ mình khỏi nghiệp dữ.

 

Đức Phật đã dùng ví dụ so sánh của nước trong ly nước khi pha vào một nắm muối với vị của nước sông Hằng khi pha vào một nắm muối như vậy. Vì vậy, mặc dù tướng cướp sát nhân Angulimala trước kia đã giết quá nhiều người trước khi ông gặp Phật, và những nghiệp ác của ông đã gây ra chắc chắn sẽ dẫn ông vào những cõi xấu, địa ngục…trong nhiều kiếp sau này. Nhưng ông đã quay đầu lại và tu sửa và cuối cùng đã chứng ngộ A-la-hán và ông không còn tái sinh, đóng hết các cửa nghiệp báođau khổ sau này, mặc dù trong khi quay đầu lại, ông đã phải trả giá một cách thảm khốc cho nghiệp nặng trong quá khứ của mình ngay khi còn sống. Điều này có nghĩa là, sự quay đầu tu hành theo đời sống đạo hạnh của ông và chấp nhận chịu đựng mọi quả báo tàn khốc, đã tái tạo nhiều giá trị đạo đức và phẩm chất tâm linh lớn (như nước sông Hằng) thì có thể làm nghiệp nặng của mình được thuyên giảmtiêu trừ.

 

Vấn đề duyên nghiệp chằng chịt và phức hợp để dẫn đến nghiệp quả, cho nên Phật đã từng nói rằng Nghiệp duyênnghiệp quả là một trong 4 lĩnh vực hay đề tài “không thể nghĩ bàn”, nó vượt qua những tư duy của con người và không nên phỏng đoán về một tiến trình nghiệp quả, vì ngay cả nghiệp quả đời này lại do nhân của một nghiệp rất xa trong hàng trăm, hàng ngàn kiếp trước mà để nhìn thấy được nó là điều “không thể nghĩ bàn”.

 

Nhưng mặc dù nghiệp vượt qua tầm hiểu biết thông thường của thế gian, nhưng một thông điệp quan trọng nhất mà Đức Phật đã muốn nhắn gửi cho chúng ta là: Sự thậtNghiệp Quả có thể sửa đổi, uốn nắn được, điều đó giải phóng con người khỏi suy nghĩ hay ám ảnh về một số phận đã an bài hay chủ nghĩa định mệnh; và vì thế mở ra một con đường rộng mở để một người có thể nỗ lực tu tập để chuyển hướng nghiệp hay sửa nghiệp theo hướng tốt lành hơn. Mọi người đều có một số ‘ý chí tự do, chủ quan’ để tạo khuôn mẫu, lối sống cho cuộc đời của mình để trở thành một người đạo hạnh, nếu thật sự người đó quay đầu và nỗ lực.

 

Tuy nhiên, trong thế gian này, bao gồm cả chính bản thân một người, thì tùy thuộc vào rất nhiều điều kiện mà ta gọi là “Duyên”, và nếu không đủ những điều kiện cần thiết hay thiếu “duyên”, thì cũng không làm được gì.

 

(Vậy thì sao?, nhiều tu sĩ đã nỗ lực hết mình cả cuộc đời mình để mong chuyển nghiệp, giác ngộ, nhưng dường như điều đó đã xảy ra rất ít. Nhưng một người Phật tử chân chính khi đã nắm rõ quy luật Nghiệp, thì vẫn tiếp tục kiên trì. Một lúc nào đó trong kiếp này, hay kiếp này chỉ là duyên nhỏ để tạo duyên lớn ở kiếp sau, và một ngày nào đó đủ các “Duyên” lành, nghiệp sẽ được chuyển đổi. Nên là Phật tử chân chính, thì vẫn tinh tấnkiên trì tu tập – ND).

 

 

 

 

10. Những Bài Học Rút Ra Từ Nghiệp (Kamma)

 

Học thuyết về Nghiệp của Đức Phật là một giáo lý về một trách nhiệm đạo đứctâm linh của chính một người và mình đối với những người khác. Càng hiểu về quy luật của Nghiệp, chúng ta càng phải nên cẩn thậnchú tâm đối với những hành động, ý nghĩlời nói của mình nếu chúng ta mong muốn tích lũy nghiệp lành. Vì một khi những hành động, ý nghĩ, lời nói được nói ra thường xuyên, chắc chắn sẽ tiếp tục lập đi, lập lại và càng tích lũy thêm về nghiệp. Vì vậy, những hành động thân tâm có khuynh hướng tạo ra những hành động giống nhau, rồi cứ như vậy những hành động kế tục cũng có khuynh hướng tương tự, tình trạng này được gọi là tiến trình thói quen (asevana). Như vậy, những hành động thiện, tốt, lành đi theo hướng tăng thêm nghiệp lành, trong khi đó những hành động bất thiện, xấu, ác sẽ thường xuyên tăng theo hướng tăng thêm nghiệp ác. Lời khuyên dạy của Phật trong “Kinh Pháp Cú” (Dhammapada) đã tóm tắt những bài học cần được rút ra bằng hành động sau khi đã học được Quy luật về Nghiệp, đó là:

 

Chớ khinh suất điều ác, nói: “Nó không đến mình”.

Ngay cả từng giọt nhỏ, nhỏ lâu cũng đầy bình.

Đừng như kẻ ngu dại, tích dần từng ‘giọt’ ác,

đến khi ác đầy mình.

(Bài kệ 121)

 

Chớ khinh suất điều thiện, nói: “Nó không đến mình”.

Ngay cả từng giọt nhỏ, nhỏ lâu cũng đầy bình.

Do vậy người có trí, tích cóp từng ‘giọt’ thiện,

đến khi thiện đầy mình.

(Bài Kệ 122)

 

 

Theo ngài Ledi Sayadaw: Khi Đức Phật tuyên thuyết rằng:

Tất cả chúng sinh đều là chủ nhân của những hành động của mình (kammasaka), là người thừa hưởng của những hành động của mình (kammadayada); chúng sinh khởi sinh (‘đầu thai’) từ những hành động của mình (kammayoni), chúng sinh đều liên quan với những hành động của mình, làm nơi nương tựa cho mình (kammapatisarana)”,

 

thì Đức Phật đã muốn dạy rằng, một khi những hành động (nghiệp), dù thiện hay bất thiện, đã được thực hiện, thì chúng sẽ chín muồi và tạo quả trong kiếp sống này hoặc cho đến trong một ngàn kiếp sau của vòng luân hồi, sanh tử. Những nghiệp xấu, tạo ra quả xấu và nghiệp tốt tạo quả tốt luôn luôn đi kèm với sự liên tục của sự sống. Vì thế, chúng sinh nên luôn luôn yêu quý và đề cao, tôn trọng đức hạnh hơn là sự sống của bản thân mình bằng cách thực hiện những việc làm công đức. Mặt khác, chúng ta nên tránh, bỏ những ác hành, tà hành, vốn còn nguy hiểm hơn cả sự chết, và chọn làm những điều tốt lành.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

11. Chú Giải  

 

Chú Giải 1:

Có 50 loại Hành trong tập hợp Hành Uẩn (Sankhara-khandha), trong đó Hành Ý Chí hay Ý Hành lại là một trong 50 Hành đó, và mối liên hệ giữa Ý Hành (cetana) và 49 Hành còn lại có thể được giải thích bằng ví dụ sau đây:

 

“Giả sử một bên sông có 49 cái thuyền hay xà-lan được chất đầy hàng hóa, và chỉ có một con tàu chạy bằng hơi nước có nhiệm vụ ‘kéo’ 49 xà-lan đó qua những bến sông khác. Bây giờ, những người đứng trên bờ có thể sẽ nói rằng: “Con tàu này sẽ kéo từng một xà-lan này, rồi xà-lan kia ra giữa dòng và đáp vào một bến sông kia, bến sông nọ”. Cũng giống như Ý Hành (cetana) đôi khi kéo Hành Tham (lobha) đi và tấp vào ‘bến’ của một đối tượng Tham. Đôi khi, tâm Hành lại kéo Hành Sân (dosa) ra khỏi bến và kéo đến đáp ở một ‘bến’ của đối tượng Sân.

Trường hợp tương tự có thể xảy ra cho bất kỳ hành nào trong 49 Hành trong nhóm Hành Uẩn (Sankhara-khandha) đó.”

 

Ý Hành (cetana) hay còn gọi là Hành Cố Ý hay Sở Hữu Tư có thể được so sánh như là một lớp trưởng hay một vị tướng quân. Lớp trưởng cũng phải học bài học và cùng lúc làm cho những học sinh khác trong lớp cùng học theo. Một tướng quân cũng chiến đấu và cùng lúc điều khiển quân lính cùng chiến đấu.

 

Trong quyển sách mang tên “Ahara Dipani” (có nghĩa là “Cẩm nang Hướng Dẫn về Thực dưỡng”, hay “Vật Thực” hay “Thức Ăn”), ngài Đại trưởng lão Mahathera Ledi Sayadaw đã diễn tả về sức mạnh lớn lao của Ý Hành (cetana) như sau:

“Pháp (dhamma) không ngừng thúc đẩy hay xui khiến tâm và những phần tử của tâm (tức các Hành khác -ND) luôn luôn không thể nằm yên, và luôn chạy theo nhiều đối tượng khác nhau, thì được gọi là Hành Ý Chí (cetana). Nó luôn cố gắng chắc chắn rằng: Tâm luôn chạy nhảy và biến hoạt chớp nhoáng. Khi một người gặp phải đối tượng Tham (lobha), chính Hành Ý Chí (cetana) ‘kéo’ hành Tham ra khỏi ‘bến đậu’ và ‘đẩy’ đến chỗ đối tượng Tham. Nó cũng thúc đẩyxui khiến ta vào khoái lạc giác quan hay dục lạc. Quá trình tương tự xảy ra đối với trường hợp của hành sân (dosa) và hành Si (moha)”.

 

“Người phàm thì chỉ có một ‘con tàu’ hay Hành Ý Chí rất nhỏ để mà thúc đẩy, để ‘kéo’ những xà-lan chở các hành Thành Tín (saddha), hành Trí Tuệ (panna), hành Bố Thí (dana), hành Giới Hạnh (sila), và hành Thiền định (bhavana). Khi gặp những hành tốt này, thì nó thúc đẩy, lôi ‘kéo’ hay xui khiến một cách rất yếu ớtchậm chạp. Phải có nhiều tác nhân hay hỗ trợ bên ngoài, chẳng hạn như: Sự quán chiếu về những hiểm họa bị đày địa ngục, để làm tăng thêm niềm thúc giục về tâm linh (samvega) và những lợi ích của việc tạo Nghiệp thiện, Nghiệp lành để mà Hành Ý Chí (cetana) mới thúc đẩy, lôi ‘kéo’, mới xui khiến hay điều khiển Tâm hướng đến những hành động tốt đó; bởi vì Tâm luôn có xu hướng tìm khoái lạc ở những chỗ xấu, ác. (Kinh Pháp Cú-Dhammapada 116).

 

“Một khi Hành Ý Chí (cetana) xui khiến một người đi đến những nơi người ấy khoái thích, nó hành động cực kỳ nhanh và mạnh mẽ. Nhưng nếu nó phải thúc đẩy, xui khiến hay lôi ‘kéo’ một người đến chỗ người ấy không thích tới, thì hành động cực kỳ chậm chạp và yếu ớt”.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

12. Sách & Tài Liệu Tham Khảo

 

1) “The Buddhist Doctrine of Kamma and Rebirth” (Học Thuyết Nghiệp Và Tái Sinh Của Phật Giáo), tác giả Đại trưởng lão Narada Maha Thera. Tái bản bởi “Hội Thiền Minh Sát Phật Giáo Selangor”, Petaling Jaya Malaysia, 1994.

 

2) “What Kamma Is?” (Nghiệp Là Gì?), tác giả ngài Sayadaw U Thittila, Ban Tôn Giáo Yangon, Myanmar, 1992.

 

3) “The Expositor” (“Attthasalini”) - (Luận Giảng Bộ Pháp Tụ - Dhammasangani), tác giả ngài Buddhaghosa (Phật Âm), bản dịch của Pe Maung Tin & Mrs. Rhys Davids, Hội Kinh Điển Pali (Pali Texts Society), London 1976.

 

4) “Manual of Right Views in the Manuals of Buddhism” (Cẩm Nang Hướng Dẫn Về Chánh Tri Kiến trong Cẩm Nang Phật Học), tác giả Đại trưởng lão Mahathera Ledi Sayadaw, Tiến Sĩ Văn Chương, người được chính phủ Myanmar trao danh hiệuAggamahapandita” (Đệ Nhất Hiền Giả). Bản dịch qua tiếng Anh của Ban Biên Tập Pháp Quang (Editors of the Light of the Dhamma), Bộ Tôn Giáo, Yangon, Myanmar.



[1]Thật ra, có một số giảng luận cho rằng trong đạo Phậtthực hiện được vấn đề thần giao cách cảm, tức là sự giao tiếp giữa các tâm với nhau hay sự chuyển giao tâm lẫn nhau (‘truyền tâm’). Tiếng Anh là: telepathy. Thật sự chưa có kinh điển nào nói rằng Đức Phật và những người khác đã từng thực hiện việc này. Việc Đức Phật và những nghười khác đã từng làm đó là việc đọc tâm (Cetopariyaya Nana, tiếng Anh: Mind Reading), chứ không phải là giao tiếp tâm hay thần giao cách cảm, chuyển giao tâm hay truyền tâm. Có lẽ chữ ‘truyền tâm ấn’ trong một số cách nói của một số thiền sư Đại Thừa cũng không mang ý nghĩa ‘truyền’ này – ND.

[2] Xin lưu ý, ở đây tất cả những chữ “Hành Ý Chí, Hành Cố Ý, Ý Hành, Hành Động Tạo Tác, Hành Động Cố Ý, Tâm Ý, Tâm Hành Ý Chí… đều có nghĩa tương đương nhau, đều diễn tả về một “hành động, hành vi cố ý của tâm, về “tâm Hành ý chí”, tức là một trong 50 tâm Hành thuộc tập hợp Hành Uẩn tạo nghiệp.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29905)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27184)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21775)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22239)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23618)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20433)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20058)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21951)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24761)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18999)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24775)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30989)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 24001)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27770)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26531)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21336)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23234)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38149)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18809)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18439)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19995)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19055)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23184)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23894)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22824)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22934)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29595)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20650)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18719)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15852)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18868)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19695)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20169)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19962)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18130)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22959)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34191)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16432)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16929)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39272)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26088)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20111)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18865)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24075)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29155)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22908)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30974)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21018)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26870)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20680)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26272)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23347)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19831)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24693)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30051)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20237)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20416)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15152)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15845)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23917)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant