Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

11. Mười Căn Bản Của Hành Động Công Đức - Dẫn Nhập

08 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 9857)
11. Mười Căn Bản Của Hành Động Công Đức - Dẫn Nhập

GIÁO TRÌNH PHẬT HỌC
(BUDDHISM COURSE)
Chan Khoon San
Biên dịch: Lê Kim Kha
Nhà xuất bản PHƯƠNG ĐÔNG 2011

XI

MƯỜI CĂN BẢN CỦA

HÀNH ĐỘNG CÔNG ĐỨC

(DASA PUNNA-KIRIYA VATTHU)

 

DẪN NHẬP

    NỘI DUNG 

    1. Những Căn Thiện & Căn Bất Thiện (Akusala Kusala Hetu)
    2. Hành Động Công Đức (Punna-kiriya)
    3. Mười Căn Bản Của Hành Động Công Đức (Dasa Punna-kiriya Vatthu)
    4. Những Loại Nghiệp Thiện (Kusala Kamma)
    5. Phân Loại Con Người (Puggala-bheda)
    6. Sách & Tài Liệu Tham Khảo

     

     

    1. Những Căn Thiện & Căn Bất Thiện (Akusala Kusala Hetu)

     

    Căn ở đây nghĩa là “gốc rễ”, “căn cơ”, “bản chất”, chứ không phải căn theo nghĩa là “giác quan” trong trường hợp khác.

     

    Có 3 căn xấu ác hay 3 căn bất thiện, mà Đức Phật đã nói đến, là nguồn gốc, nguyên nhân của tất cả mọi đau khổ. Đó là:

     

    • Tham dục (Lobha),
    • Sân hận (Dosa), và
    • Si mê (Moha)

     

    Ba loại gốc rễ hay bản chất này bao gồm tất cả mọi phạm vi bất thiện, dù chúng thể hiện một cách mờ nhạt hay thể hiện một cách thô thiển nhất.

     

    Ngược lại, có 3 căn tốt hay căn thiện, đó là:

     

    • Không Tham dục (Alobha) = Không ích kỷ, rộng lượng, hào hiệp, buông bỏ, không tham chấp
    • Không Sân hận (Adosa) = Thương yêu, từ ái, nhẫn nhục và bi mẫn
    • Không Si mê (Amoha) = Hiểu biết, tri kiến, trí tuệ

     

     

     

     

    2. Những Hành Động Công Đức (Punna-kiriya)

     

    Tất cả mọi hành động đều xuất phát từ tâm, do tâm điều khiển, do tâm tạo tác. Thân và lời nói chỉ là những “cánh cửa” để cho tâm thể hiện, biểu hiện hành vi của mình mà thôi.

     

    Người xưa định nghĩa từ  punna (công đức, phước đức) như là: “công đức rửa sạch hay làm trong sạch tâm”. Từ định nghĩa về những căn thiện tạo điều tốt lành và những căn bất thiện tạo ra đau khổ, chúng ta có thể suy ra được chính những căn thiện là nguyên nhân, gốc rễ để tạo ra công đức.

     

    Những hành động công đức là những hành động do ý chí, do tâm chỉ đạo, là những tâm “Hành” được đi kèm bởi 3 căn thiện, đó là Không Tham, Không Sân, Không Si .

     

    Ngược lại, những hành động đáng trách hay làm tổn hại công đức là những hành động do ý chí, do tâm chỉ đạo, là những tâm “Hành” được đi kèm bởi 3 căn bất thiệnTham, Sân, Si.

     

    Nói tóm lại một cách đơn giản, những căn thiện hay bất thiện tạo ra những nghiệp thiện hay nghiệp bất thiện.

     

    Theo “Vi Diệu Pháp” tạng (Abhidhamma), có tám (8) loại Thức thiện (sobhana citta)[1] tương ứng với việc tái sinh về cõi Dục Giới (Kamavacara). Bốn (4) loại Thức trong số này chỉ chứa có 2 căn thiện là Không Tham & Không Sân, còn bốn (4) loại Thức còn lại thì chứa đầy đủ 3 loại căn thiện là Không Tham, Không Sân & Không Si (Trí Tuệ).

     

    Mỗi nhóm lại được phân chia ra thành nhiều loại khác, tùy thuộc vào chúng được trợ duyên hay không được trợ duyên tùy thuộc vào chúng có đi kèm với tâm Hỉ (hoan hỉ, vui vẻ) hay tâm Xả (vô tư, thản nhiên). Khi bàn về ý nghĩa tột cùng, 8 loại Thức thiện này bao gồm tất cả mọi hành động công đức hay tất cả mọi Nghiệp thiện tương ứng với cõi Dục Giới.

     

    Tám (8) loại Thức thiện theo danh sách dưới đây, đó là:

     

    a) Thức thiện có tâm Hỉ đi kèm, trợ duyên, cùng trí tuệ

    b) Thức thiện có tâm Hỉ đi kèm, trợ duyên, không trí tuệ.

    c) Thức thiện có tâm Hỉ đi kèm, không trợ duyên, cùng trí tuệ.

    d) Thức thiện có tâm Hỉ đi kèm, không trợ duyên, không trí tuệ.

     

    e) Thức thiện có tâm Xả đi kèm, trợ duyên, cùng trí tuệ

    f) Thức thiện có tâm Xả đi kèm, trợ duyên, không trí tuệ.

    g) Thức thiện có tâm Xả đi kèm, không trợ duyên, cùng trí tuệ.

    h) Thức thiện có tâm Xả đi kèm, không trợ duyên, không trí tuệ.

     

     

     

     

    3. Mười Căn Bản Của Hành Động Công Đức (Dasa Punna-kiriya Vatthu

     

    Nếu một người thật sự muốn tích lũy nhiều nghiệp thiện trong đời sống này, thì có 10 căn bản hay 10 phương cách (Dasa vatthu) để thực hiện thành công công đức hay việc làm công đức (Punna-kiriya) để tạo ra nghiệp quả tốt lành, và điều quan trọng là hãy cố gắng làm hết sức mình và bằng mọi phương tiện, điều kiện mình có được để thực hiện việc công đức. Đó là những căn bản, nền tảng hay những cách hay những việc làm như sau:

     

    1) Dana: Việc Sự Bố Thí, cho tặng, sự rộng lượng, hào hiệp.

    2) Sila: Việc tuân giữ Giới Hạnh đạo đức, đó là Năm Giới căn bản, Tám Giới hay Mười Giới Thập Thiện…

    3) Bhavana: Thiền hành, cả thiền địnhthiền quán minh sát.

    4) Apacayana: Việc Tôn kính người lớn tuổi, bậc thánh nhân.

    5) Veyyavacca: Sốt sắng Phục vụ, giúp đỡ thực hiện những việc thiện.

    6) Pattidana: Việc Chia sẻ, hồi hướng công đức.

    7) Pattanumodana: Sự Hoan hỉ, vui mừng cho công đức của người khác, tùy hỷ công đức (HV).

    8) Dhamma-savana: Nghe học Giáo Pháp.

    9) Dhamma-desana: Truyền, dạy Giáo Pháp.

    10)Ditthijukamma: Chánh tín, cũng có niềm tin một cách ngay thẳng, chính trực, được dựa vào chánh kiến.

     

     

    Mười căn bản hay nền tảng của Hành động công đức được phân thành 3 nhóm khác nhau:

     

    • Dana: Nhóm Bố Thí, bao gồm việc Bố Thí, Hồi Hướng Công Đức & Tùy Hỷ Công Đức.
    • Sila: Nhóm Giới Hạnh, bao gồm Giới Hạnh, Tôn Kính & Phục Vụ
    • Bhavana: Nhóm Thiền Hành, bao gồm Thiền, Nghe học Giáo Pháp, Truyền Dạy Giáo Pháp & Củng Cố Chánh Kiến dựa vào chánh kiến

     

     

    (a) Nhóm Bố Thí (Dana) đại diện cho phẩm chất Không Tham (alobha), có nghĩa là cho, tặng, hào hiệp, không ích kỷ, buông bỏ. Nó đối nghĩa, đối nghịch với sự ghen tỵ, bủn xỉn hay ích kỷ.

     

    (b) Nhóm Giới Hạnh (Sila) đại diện cho phẩm chất Không Sân (adosa), có nghĩa là từ ái, thiện chí. Nó đối nghĩa, đối nghịch với Tham chấp (lobha) và Sân hận, thù ghét (dosa).

     

    (c) Nhóm Thiền Hành (Bhavana) đại diện cho phẩm chất Không Si (amoha), có nghĩa là trí tuệ hay sự hiểu biết. Nó đối nghĩa, đối nghịch với Si mê, ngu dốt và tà kiến, mù quáng.

     

    Mười căn bản hay mười chủ đề của hành động công đức được thực hiện cùng với tám (8) loại Thức thiện, trừ khi một người chứng đạt những tầng Thiền Định (Jhana) hay giác ngộ Đạo thức (magga, Thức con đường Đạo) bằng phương pháp thiền. Vì thế, mười căn bản của hành động công đức này thường làm khởi sinh tạo ra những nghiệp thiện, tương ứng cõi trời Dục Giới

     

     

     

     

    4. Những Loại Nghiệp Thiện (Kusala Kamma)

     

    (a) Những Nghiệp Thiện 2-Căn và Nghiệp Thiện 3-Căn

     

    Nếu một người thực hiện những hành động thiện, việc thiện với kiến thức, hiểu biết về Nghiệp (Kamma) và những nghiệp quả, những thức thiện có đi kèm cùng trí tuệ hiểu biết. Tâm ý hay tâm Hành sẽ được đi kèm bởi 3 căn thiện: Không Tham, Không Sân, Không Si. Vì vậy nên tạo ra Nghiệp thiện 3-căn (tihetuka). Càng tốt hơn nữa, trong quá trình thực hiện những hành động thiện, một người có thể phát triển trí tuệ bên trong tức trí tuệ minh sát bằng cách lý giải mọi sự việc là vô thường, khổ và vô ngã. Nghiệp thiện tạo ra sẽ lại được đi kèm bởi ba căn thiện.

     

    Mặt khác, nếu một người thực hiện những hành động thiện mà không có trí tuệ, hiểu biết về Nghiệp (Kamma) và những nghiệp quả, thì người đó đang thực hiện hành động đó mà không có chút hiểu biết hay trí tuệ nào cả. Vì thế, tâm ý hay tâm Hành sẽ không được đi kèm với căn Không Si, mà chỉ có 2 căn Không Tham & Không Sân. Như vậy sẽ tạo ra Nghiệp thiện 2-căn (dvihetuka).

     

     

    (b) Nghiệp Thiện Ưu Việt & Nghiệp Thiện Thấp Kém

     

    Trong khi thực hành trên 10 căn bản của việc công đức, một người có tâm ý hay ý định trước và sau khi khi hành động công đức được thực hiện là rất quan trọng. Nếu một người phát triển Thức Thiện trước khi thực hiện một hành động công đức, thì tâm ý (hay tâm Hành) về đạo sau khi thực hiện sẽ được bao quanh bởi nhiều tâm ý thiện khác và hệ quả là tiềm năng thiện căn mạnh mẽ hơn nhiều. Nghiệp thiện được tạo ra như vậy được gọi là Nghiệp Thiện Ưu Việt (ukkatha).

     

    Để tạo được Nghiệp Thiện ưu việt này, một người luôn nghĩ về hành động công đức trước khi thực hiện nó và luôn cảm thấy vui mừng, hoan hỉ vì có được cơ hội để thực hiện hành động công đức đó. Và hơn nữa, sau khi đã thực hiện xong hành động công đức đó, một người nên quán chiếu về điều đó và luôn cảm thấy vui vẽ, mãn nguyện hay vui mừng về khía cạnh hướng thiện, về mặt tốt lành của hành động công đức đó.

     

    Mặt khác, nếu một người cảm thấy lười biếng hay ngập ngừng hay ghen tỵ hay bủn xỉn trước khi quyết định làm việc công đức, ví dụ như bố thí, và cảm thấy tiếc nuối sau khi hành động công đức đã được thực hiện, thì tâm ý (hay tâm Hành, ý Hành) về đạo đức này sẽ bị bao vây bởi những tâm ý bất thiện khác, và hệ quả là tiềm năng thiện sẽ bị suy yếu. Nghiệp thiện được tạo ra như vậy được gọi là Nghiệp Thiện thấp kém (omaka).

     

    Như vậy, có 4 loại Nghiệp thiện được tạo ra trong việc thực hiện những hành động hay những việc công đức, đó là:

     

    i) Nghiệp thiện ưu việt 3-căn

    ii) Nghiệp thiện thấp kém 3-căn

    iii) Nghiệp thiện ưu việt 2-căn

    iv) Nghiệp thiện thấp kém 2-căn

     

    Mỗi Nghiệp thiện trong 4 loại trên có thể được thực hiện cùng với tâm hoan Hỉ hay với tâm buông Xả, như vậy sẽ tạo ra tám (8) loại Thức thiện như đã nói.

     

    ▪ Trong bốn (4) loại Nghiệp thiện, loại (i) là tốt nhất, tối ưu việt. Nếu Nghiệp này trợ duyên cho Thức Tái Sinh, thì người đó sẽ được tái sinh với 3 căn thiện (tihetuka) vào cảnh giới phúc lành làm người hay làm thiên thần (devas) và sẽ sở hữu được khả năng chứng đạt những tầng Thiền Định (Jhana) và Thức con đường Đạo (Magga).

     

    ▪ Loại Nghiệp thiện (ii) và (iii) gần như là tương đương với nhau. Nếu Nghiệp này trợ duyên cho Thức Tái Sinh, người đó sẽ được tái sinh với 2 căn thiện (dvihetuka) vào cảnh giới phúc lành để làm người hay làm thiên thần (devas). Những người ấy không sở hữu được khả năng chứng đạt những tầng Thiền Định (Jhana) và Thức con đường đạo (Magga).

     

    ▪ Loại Nghiệp thiện (iv) là thấp kém nhất. Nếu nghiệp này trợ duyên cho Thức Tái Sinh, người đó cũng sẽ được tái sinh vào cảnh giới phúc lành (sugati), nhưng tiếc thay người đó không có được căn thiện nào (ahetuka) và sẽ làm người tật nguyền, dị dạng hoặc làm thần bị giáng xuống làm địa thần (TA: earth-bound degraded deva) ở cõi thấp kém hơn là cõi trời Tứ Đại Thiên Vương (Catumaharajika), có thể làm những quỷ thần dị dạng.

     

     

     

     

    5. Phân Loại Con Người (Puggala-bheda)

     

    Con Người (Puggala) có nghĩa là một cá nhân, một người. Theo “Vi Diệu Pháp” (Abhidhamma), con người được phân thành 12 loại, trong đó bao gồm 4 loại người phàm tục (puthujjana, world-lings) và 8 loại người thánh thiện hay thánh nhân (ariya-puggala). Mười hai (12) loại người đó lần lượt là:

     

     

    1) Loại Người Phàm Phu Không Có Căn Thiện ở Cõi Xấu (Duggati ahetuka puggala)

    Đây là những hạng người bị sinh vào cõi xấu đó là: Địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ, quỷ thần. Những hạng người này không có được một căn thiện (Không Tham, Không Sân, Không Si) nào. Vì thế được gọi là hạng người Vô Thiện Căn (Duggati: Cõi xấu, ahetuka: không có căn thiện, puggala: phàm phu).

     

    2) Loại Người Phàm Phu Không Có Căn Thiện ở Cõi Phúc Lành (Sugati ahetuka puggala)

    Đây là những hạng người được sinh ra với thân hình tật nguyền hay dị dạngcõi người hay cõi trời thấp của Tứ Đại Thiên Vương (Catumaharajika), nhưng họ không có được một căn thiện nào. Người vô thiện căn.

     

    3) Loại Người Phàm Phu 2-Căn Thiện (Dvihetuka puggala)

    Đây là loại người và những thiên thần (devas) được tái sinh chỉ có 2-căn thiện là: Không Tham, Không Sân. Những loại người này không có khả năng chứng đạt những tầng Thiền Định (jhanas) và chứng ngộ Thức con đường Đạo (magga) trong kiếp sống này, nhưng đa số họ đều cố gắng tu tập.

     

    Tuy nhiên, họ có thể trở thành loại người phàm phu có 3-căn thiện (tihetuka puggala) trong kiếp sau nếu họ nỗ lực hành thiền trong kiếp này, và họ sẽ chứng đạt những tầng Thiền Định (jhanas) và chứng ngộ Thức con đường Đạo (magga) nếu họ tiếp tục hành thiền trong kiếp sống sau.

     

    4) Loại Người Phàm Phu 3-Căn Thiện (Tiihetuka puggala) -

    Đây là loại người và thiên thần (devas) được tái sinh với 3-căn thiện là: Không Tham, Không Sân và Không Si. Những người này có khả năng chứng đạt những tầng Thiền Định (jhanas) và chứng ngộ Thức con đường Đạo (magga) trong kiếp sống này nếu họ nỗ lực, tinh tấn thực hành Thiền Định, và Thiền Quán Trí Tuệ bên trong (Thiền Minh Sát). Những người phàm phu có 3-căn thiện có thể chứng ngộ những tầng Thánh quả khác nhau bằng cách thực hành Thiền Minh Sát (Vipassana).

     

    Hạng người 3-căn thiện này, nếu nỗ lực tu tập thực hành Thiền Quán Minh Sát, thì có thể sẽ lần lượt chứng ngộ được Thức con đường Đạo (magga)[2] và Thức Đạo Quả (phala) của bốn (4) Thánh Đạo & Quả, để trở thành 8 loại người thánh thiện hay 8 bậc Thánh nhân, như sau:

     

    5) Thức Hướng Nhập Lưu (Sotapatti maggattha) [= đang hướng Thức con đường Đạo hay tầng Nhập Lưu, tầng thánh thứ nhất].

    6) Thức Quả Nhập Lưu (Sotapatti phala) [= khi chứng được Quả Nhập Lưu, tầng thánh thứ nhất].

    7) Thức Hướng Nhất Lai (Sakadagami magga), tầng thánh thứ hai.

    8) Thức Quả Nhất Lai (Sakadagami phala), tầng thánh thứ hai.

    9) Thức Hướng Bất Lai (Anagami magga), tầng thánh thứ ba.

    10)Thức Quả Nhất Lai (Anagami phala), tầng thánh thứ ba.

    11)Thức Hướng A-la-hán (Arahatta magga), tầng thánh cuối cùng.

    12)Thức Hướng Quả A-la-hán (Arahatta phala), tầng thánh cuối cùng.

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

    6. Sách & Tài Liệu Tham Khảo

     

    1) “The Roots of Good and Evil” (Những Căn Tốt và Căn Xấu), tác giả Trưởng Lão Nyanaponika Thera, số phát hành “The Wheel No. 251/253”.

     

    2) “The Essence of Buddha Abhidhamma” (Cốt Lõi Vi Diệu Pháp của Đức Phật), tác giả Tiến Sĩ Mehm Tin Mon.



    [1] Lưu ý, theo “Vi Diệu Pháp”, thì lúc này khái niệm Thức và Tâm (Citta) là đồng nghĩa nhau. Vì thế có người gọi là Thức thiện, có người gọi là Tâm thiện – ND

    [2] Tức là đã vào giai đoạn hay chặng của tầng Thánh và đang tu tập hướng đến Thánh Quả của tầng Thánh đó -ND)

     

     


    Gửi ý kiến của bạn
    Tắt
    Telex
    VNI
    Tên của bạn
    Email của bạn
    (Xem: 19861)
    Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
    (Xem: 28968)
    Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
    (Xem: 20694)
    Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
    (Xem: 19445)
    Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
    (Xem: 30503)
    Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
    (Xem: 36429)
    Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
    (Xem: 33234)
    Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
    (Xem: 35571)
    Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
    (Xem: 20990)
    Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
    (Xem: 21925)
    Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
    (Xem: 25263)
    Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
    (Xem: 25799)
    PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
    (Xem: 31266)
    Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
    (Xem: 18565)
    Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
    (Xem: 25146)
    Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
    (Xem: 23774)
    Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
    (Xem: 28943)
    "Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
    (Xem: 20867)
    Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
    (Xem: 31446)
    Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
    (Xem: 25552)
    Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
    (Xem: 29724)
    Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
    (Xem: 22527)
    Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
    (Xem: 25725)
    Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
    (Xem: 23286)
    Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
    (Xem: 25749)
    Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
    (Xem: 23726)
    Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
    (Xem: 40616)
    Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
    (Xem: 23356)
    Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
    (Xem: 22453)
    Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
    (Xem: 22101)
    Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
    (Xem: 23511)
    Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
    (Xem: 16971)
    Con người khác với loài động vật ở chổ biết đặt vấn đề về giá trị của đời sống; sống như thế nào thì gọi là thiện là tốt hoặc ngược lại là ác là xấu?
    (Xem: 23289)
    “Nếu Phật tử cố ăn thịt. Tất cả thịt của mọi loài chúng sanh đều không được ăn. Luận về người ăn thịt thì mất lòng đại từ bi, dứt giống Phật tánh...
    (Xem: 24317)
    Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
    (Xem: 41109)
    Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
    (Xem: 18996)
    Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
    (Xem: 20493)
    Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
    (Xem: 27729)
    Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
    (Xem: 38126)
    Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
    (Xem: 34079)
    Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
    (Xem: 36789)
    Thiện namthiện nữ, nay các người lãnh thọ giới pháp rồi thì phải tôn kính mà vâng giữ, không được vi phạm giới pháp cần phải phụng trì.
    (Xem: 24004)
    Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
    (Xem: 29197)
    Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
    (Xem: 60162)
    Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
    (Xem: 27623)
    Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
    (Xem: 68749)
    Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
    (Xem: 24537)
    Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
    (Xem: 24501)
    Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
    (Xem: 22719)
    Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
    (Xem: 26362)
    Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
    (Xem: 26550)
    Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
    (Xem: 20825)
    Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
    (Xem: 20065)
    Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
    (Xem: 27555)
    Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
    (Xem: 46442)
    Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
    (Xem: 53586)
    Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
    (Xem: 23617)
    Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
    (Xem: 21100)
    Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
    (Xem: 25580)
    Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
    (Xem: 29269)
    VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
    Quảng Cáo Bảo Trợ
    Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
    Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant