Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

11. Mười Căn Bản Của Hành Động Công Đức - Dẫn Nhập

08 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 9855)
11. Mười Căn Bản Của Hành Động Công Đức - Dẫn Nhập

GIÁO TRÌNH PHẬT HỌC
(BUDDHISM COURSE)
Chan Khoon San
Biên dịch: Lê Kim Kha
Nhà xuất bản PHƯƠNG ĐÔNG 2011

XI

MƯỜI CĂN BẢN CỦA

HÀNH ĐỘNG CÔNG ĐỨC

(DASA PUNNA-KIRIYA VATTHU)

 

DẪN NHẬP

    NỘI DUNG 

    1. Những Căn Thiện & Căn Bất Thiện (Akusala Kusala Hetu)
    2. Hành Động Công Đức (Punna-kiriya)
    3. Mười Căn Bản Của Hành Động Công Đức (Dasa Punna-kiriya Vatthu)
    4. Những Loại Nghiệp Thiện (Kusala Kamma)
    5. Phân Loại Con Người (Puggala-bheda)
    6. Sách & Tài Liệu Tham Khảo

     

     

    1. Những Căn Thiện & Căn Bất Thiện (Akusala Kusala Hetu)

     

    Căn ở đây nghĩa là “gốc rễ”, “căn cơ”, “bản chất”, chứ không phải căn theo nghĩa là “giác quan” trong trường hợp khác.

     

    Có 3 căn xấu ác hay 3 căn bất thiện, mà Đức Phật đã nói đến, là nguồn gốc, nguyên nhân của tất cả mọi đau khổ. Đó là:

     

    • Tham dục (Lobha),
    • Sân hận (Dosa), và
    • Si mê (Moha)

     

    Ba loại gốc rễ hay bản chất này bao gồm tất cả mọi phạm vi bất thiện, dù chúng thể hiện một cách mờ nhạt hay thể hiện một cách thô thiển nhất.

     

    Ngược lại, có 3 căn tốt hay căn thiện, đó là:

     

    • Không Tham dục (Alobha) = Không ích kỷ, rộng lượng, hào hiệp, buông bỏ, không tham chấp
    • Không Sân hận (Adosa) = Thương yêu, từ ái, nhẫn nhục và bi mẫn
    • Không Si mê (Amoha) = Hiểu biết, tri kiến, trí tuệ

     

     

     

     

    2. Những Hành Động Công Đức (Punna-kiriya)

     

    Tất cả mọi hành động đều xuất phát từ tâm, do tâm điều khiển, do tâm tạo tác. Thân và lời nói chỉ là những “cánh cửa” để cho tâm thể hiện, biểu hiện hành vi của mình mà thôi.

     

    Người xưa định nghĩa từ  punna (công đức, phước đức) như là: “công đức rửa sạch hay làm trong sạch tâm”. Từ định nghĩa về những căn thiện tạo điều tốt lành và những căn bất thiện tạo ra đau khổ, chúng ta có thể suy ra được chính những căn thiện là nguyên nhân, gốc rễ để tạo ra công đức.

     

    Những hành động công đức là những hành động do ý chí, do tâm chỉ đạo, là những tâm “Hành” được đi kèm bởi 3 căn thiện, đó là Không Tham, Không Sân, Không Si .

     

    Ngược lại, những hành động đáng trách hay làm tổn hại công đức là những hành động do ý chí, do tâm chỉ đạo, là những tâm “Hành” được đi kèm bởi 3 căn bất thiệnTham, Sân, Si.

     

    Nói tóm lại một cách đơn giản, những căn thiện hay bất thiện tạo ra những nghiệp thiện hay nghiệp bất thiện.

     

    Theo “Vi Diệu Pháp” tạng (Abhidhamma), có tám (8) loại Thức thiện (sobhana citta)[1] tương ứng với việc tái sinh về cõi Dục Giới (Kamavacara). Bốn (4) loại Thức trong số này chỉ chứa có 2 căn thiện là Không Tham & Không Sân, còn bốn (4) loại Thức còn lại thì chứa đầy đủ 3 loại căn thiện là Không Tham, Không Sân & Không Si (Trí Tuệ).

     

    Mỗi nhóm lại được phân chia ra thành nhiều loại khác, tùy thuộc vào chúng được trợ duyên hay không được trợ duyên tùy thuộc vào chúng có đi kèm với tâm Hỉ (hoan hỉ, vui vẻ) hay tâm Xả (vô tư, thản nhiên). Khi bàn về ý nghĩa tột cùng, 8 loại Thức thiện này bao gồm tất cả mọi hành động công đức hay tất cả mọi Nghiệp thiện tương ứng với cõi Dục Giới.

     

    Tám (8) loại Thức thiện theo danh sách dưới đây, đó là:

     

    a) Thức thiện có tâm Hỉ đi kèm, trợ duyên, cùng trí tuệ

    b) Thức thiện có tâm Hỉ đi kèm, trợ duyên, không trí tuệ.

    c) Thức thiện có tâm Hỉ đi kèm, không trợ duyên, cùng trí tuệ.

    d) Thức thiện có tâm Hỉ đi kèm, không trợ duyên, không trí tuệ.

     

    e) Thức thiện có tâm Xả đi kèm, trợ duyên, cùng trí tuệ

    f) Thức thiện có tâm Xả đi kèm, trợ duyên, không trí tuệ.

    g) Thức thiện có tâm Xả đi kèm, không trợ duyên, cùng trí tuệ.

    h) Thức thiện có tâm Xả đi kèm, không trợ duyên, không trí tuệ.

     

     

     

     

    3. Mười Căn Bản Của Hành Động Công Đức (Dasa Punna-kiriya Vatthu

     

    Nếu một người thật sự muốn tích lũy nhiều nghiệp thiện trong đời sống này, thì có 10 căn bản hay 10 phương cách (Dasa vatthu) để thực hiện thành công công đức hay việc làm công đức (Punna-kiriya) để tạo ra nghiệp quả tốt lành, và điều quan trọng là hãy cố gắng làm hết sức mình và bằng mọi phương tiện, điều kiện mình có được để thực hiện việc công đức. Đó là những căn bản, nền tảng hay những cách hay những việc làm như sau:

     

    1) Dana: Việc Sự Bố Thí, cho tặng, sự rộng lượng, hào hiệp.

    2) Sila: Việc tuân giữ Giới Hạnh đạo đức, đó là Năm Giới căn bản, Tám Giới hay Mười Giới Thập Thiện…

    3) Bhavana: Thiền hành, cả thiền địnhthiền quán minh sát.

    4) Apacayana: Việc Tôn kính người lớn tuổi, bậc thánh nhân.

    5) Veyyavacca: Sốt sắng Phục vụ, giúp đỡ thực hiện những việc thiện.

    6) Pattidana: Việc Chia sẻ, hồi hướng công đức.

    7) Pattanumodana: Sự Hoan hỉ, vui mừng cho công đức của người khác, tùy hỷ công đức (HV).

    8) Dhamma-savana: Nghe học Giáo Pháp.

    9) Dhamma-desana: Truyền, dạy Giáo Pháp.

    10)Ditthijukamma: Chánh tín, cũng có niềm tin một cách ngay thẳng, chính trực, được dựa vào chánh kiến.

     

     

    Mười căn bản hay nền tảng của Hành động công đức được phân thành 3 nhóm khác nhau:

     

    • Dana: Nhóm Bố Thí, bao gồm việc Bố Thí, Hồi Hướng Công Đức & Tùy Hỷ Công Đức.
    • Sila: Nhóm Giới Hạnh, bao gồm Giới Hạnh, Tôn Kính & Phục Vụ
    • Bhavana: Nhóm Thiền Hành, bao gồm Thiền, Nghe học Giáo Pháp, Truyền Dạy Giáo Pháp & Củng Cố Chánh Kiến dựa vào chánh kiến

     

     

    (a) Nhóm Bố Thí (Dana) đại diện cho phẩm chất Không Tham (alobha), có nghĩa là cho, tặng, hào hiệp, không ích kỷ, buông bỏ. Nó đối nghĩa, đối nghịch với sự ghen tỵ, bủn xỉn hay ích kỷ.

     

    (b) Nhóm Giới Hạnh (Sila) đại diện cho phẩm chất Không Sân (adosa), có nghĩa là từ ái, thiện chí. Nó đối nghĩa, đối nghịch với Tham chấp (lobha) và Sân hận, thù ghét (dosa).

     

    (c) Nhóm Thiền Hành (Bhavana) đại diện cho phẩm chất Không Si (amoha), có nghĩa là trí tuệ hay sự hiểu biết. Nó đối nghĩa, đối nghịch với Si mê, ngu dốt và tà kiến, mù quáng.

     

    Mười căn bản hay mười chủ đề của hành động công đức được thực hiện cùng với tám (8) loại Thức thiện, trừ khi một người chứng đạt những tầng Thiền Định (Jhana) hay giác ngộ Đạo thức (magga, Thức con đường Đạo) bằng phương pháp thiền. Vì thế, mười căn bản của hành động công đức này thường làm khởi sinh tạo ra những nghiệp thiện, tương ứng cõi trời Dục Giới

     

     

     

     

    4. Những Loại Nghiệp Thiện (Kusala Kamma)

     

    (a) Những Nghiệp Thiện 2-Căn và Nghiệp Thiện 3-Căn

     

    Nếu một người thực hiện những hành động thiện, việc thiện với kiến thức, hiểu biết về Nghiệp (Kamma) và những nghiệp quả, những thức thiện có đi kèm cùng trí tuệ hiểu biết. Tâm ý hay tâm Hành sẽ được đi kèm bởi 3 căn thiện: Không Tham, Không Sân, Không Si. Vì vậy nên tạo ra Nghiệp thiện 3-căn (tihetuka). Càng tốt hơn nữa, trong quá trình thực hiện những hành động thiện, một người có thể phát triển trí tuệ bên trong tức trí tuệ minh sát bằng cách lý giải mọi sự việc là vô thường, khổ và vô ngã. Nghiệp thiện tạo ra sẽ lại được đi kèm bởi ba căn thiện.

     

    Mặt khác, nếu một người thực hiện những hành động thiện mà không có trí tuệ, hiểu biết về Nghiệp (Kamma) và những nghiệp quả, thì người đó đang thực hiện hành động đó mà không có chút hiểu biết hay trí tuệ nào cả. Vì thế, tâm ý hay tâm Hành sẽ không được đi kèm với căn Không Si, mà chỉ có 2 căn Không Tham & Không Sân. Như vậy sẽ tạo ra Nghiệp thiện 2-căn (dvihetuka).

     

     

    (b) Nghiệp Thiện Ưu Việt & Nghiệp Thiện Thấp Kém

     

    Trong khi thực hành trên 10 căn bản của việc công đức, một người có tâm ý hay ý định trước và sau khi khi hành động công đức được thực hiện là rất quan trọng. Nếu một người phát triển Thức Thiện trước khi thực hiện một hành động công đức, thì tâm ý (hay tâm Hành) về đạo sau khi thực hiện sẽ được bao quanh bởi nhiều tâm ý thiện khác và hệ quả là tiềm năng thiện căn mạnh mẽ hơn nhiều. Nghiệp thiện được tạo ra như vậy được gọi là Nghiệp Thiện Ưu Việt (ukkatha).

     

    Để tạo được Nghiệp Thiện ưu việt này, một người luôn nghĩ về hành động công đức trước khi thực hiện nó và luôn cảm thấy vui mừng, hoan hỉ vì có được cơ hội để thực hiện hành động công đức đó. Và hơn nữa, sau khi đã thực hiện xong hành động công đức đó, một người nên quán chiếu về điều đó và luôn cảm thấy vui vẽ, mãn nguyện hay vui mừng về khía cạnh hướng thiện, về mặt tốt lành của hành động công đức đó.

     

    Mặt khác, nếu một người cảm thấy lười biếng hay ngập ngừng hay ghen tỵ hay bủn xỉn trước khi quyết định làm việc công đức, ví dụ như bố thí, và cảm thấy tiếc nuối sau khi hành động công đức đã được thực hiện, thì tâm ý (hay tâm Hành, ý Hành) về đạo đức này sẽ bị bao vây bởi những tâm ý bất thiện khác, và hệ quả là tiềm năng thiện sẽ bị suy yếu. Nghiệp thiện được tạo ra như vậy được gọi là Nghiệp Thiện thấp kém (omaka).

     

    Như vậy, có 4 loại Nghiệp thiện được tạo ra trong việc thực hiện những hành động hay những việc công đức, đó là:

     

    i) Nghiệp thiện ưu việt 3-căn

    ii) Nghiệp thiện thấp kém 3-căn

    iii) Nghiệp thiện ưu việt 2-căn

    iv) Nghiệp thiện thấp kém 2-căn

     

    Mỗi Nghiệp thiện trong 4 loại trên có thể được thực hiện cùng với tâm hoan Hỉ hay với tâm buông Xả, như vậy sẽ tạo ra tám (8) loại Thức thiện như đã nói.

     

    ▪ Trong bốn (4) loại Nghiệp thiện, loại (i) là tốt nhất, tối ưu việt. Nếu Nghiệp này trợ duyên cho Thức Tái Sinh, thì người đó sẽ được tái sinh với 3 căn thiện (tihetuka) vào cảnh giới phúc lành làm người hay làm thiên thần (devas) và sẽ sở hữu được khả năng chứng đạt những tầng Thiền Định (Jhana) và Thức con đường Đạo (Magga).

     

    ▪ Loại Nghiệp thiện (ii) và (iii) gần như là tương đương với nhau. Nếu Nghiệp này trợ duyên cho Thức Tái Sinh, người đó sẽ được tái sinh với 2 căn thiện (dvihetuka) vào cảnh giới phúc lành để làm người hay làm thiên thần (devas). Những người ấy không sở hữu được khả năng chứng đạt những tầng Thiền Định (Jhana) và Thức con đường đạo (Magga).

     

    ▪ Loại Nghiệp thiện (iv) là thấp kém nhất. Nếu nghiệp này trợ duyên cho Thức Tái Sinh, người đó cũng sẽ được tái sinh vào cảnh giới phúc lành (sugati), nhưng tiếc thay người đó không có được căn thiện nào (ahetuka) và sẽ làm người tật nguyền, dị dạng hoặc làm thần bị giáng xuống làm địa thần (TA: earth-bound degraded deva) ở cõi thấp kém hơn là cõi trời Tứ Đại Thiên Vương (Catumaharajika), có thể làm những quỷ thần dị dạng.

     

     

     

     

    5. Phân Loại Con Người (Puggala-bheda)

     

    Con Người (Puggala) có nghĩa là một cá nhân, một người. Theo “Vi Diệu Pháp” (Abhidhamma), con người được phân thành 12 loại, trong đó bao gồm 4 loại người phàm tục (puthujjana, world-lings) và 8 loại người thánh thiện hay thánh nhân (ariya-puggala). Mười hai (12) loại người đó lần lượt là:

     

     

    1) Loại Người Phàm Phu Không Có Căn Thiện ở Cõi Xấu (Duggati ahetuka puggala)

    Đây là những hạng người bị sinh vào cõi xấu đó là: Địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ, quỷ thần. Những hạng người này không có được một căn thiện (Không Tham, Không Sân, Không Si) nào. Vì thế được gọi là hạng người Vô Thiện Căn (Duggati: Cõi xấu, ahetuka: không có căn thiện, puggala: phàm phu).

     

    2) Loại Người Phàm Phu Không Có Căn Thiện ở Cõi Phúc Lành (Sugati ahetuka puggala)

    Đây là những hạng người được sinh ra với thân hình tật nguyền hay dị dạngcõi người hay cõi trời thấp của Tứ Đại Thiên Vương (Catumaharajika), nhưng họ không có được một căn thiện nào. Người vô thiện căn.

     

    3) Loại Người Phàm Phu 2-Căn Thiện (Dvihetuka puggala)

    Đây là loại người và những thiên thần (devas) được tái sinh chỉ có 2-căn thiện là: Không Tham, Không Sân. Những loại người này không có khả năng chứng đạt những tầng Thiền Định (jhanas) và chứng ngộ Thức con đường Đạo (magga) trong kiếp sống này, nhưng đa số họ đều cố gắng tu tập.

     

    Tuy nhiên, họ có thể trở thành loại người phàm phu có 3-căn thiện (tihetuka puggala) trong kiếp sau nếu họ nỗ lực hành thiền trong kiếp này, và họ sẽ chứng đạt những tầng Thiền Định (jhanas) và chứng ngộ Thức con đường Đạo (magga) nếu họ tiếp tục hành thiền trong kiếp sống sau.

     

    4) Loại Người Phàm Phu 3-Căn Thiện (Tiihetuka puggala) -

    Đây là loại người và thiên thần (devas) được tái sinh với 3-căn thiện là: Không Tham, Không Sân và Không Si. Những người này có khả năng chứng đạt những tầng Thiền Định (jhanas) và chứng ngộ Thức con đường Đạo (magga) trong kiếp sống này nếu họ nỗ lực, tinh tấn thực hành Thiền Định, và Thiền Quán Trí Tuệ bên trong (Thiền Minh Sát). Những người phàm phu có 3-căn thiện có thể chứng ngộ những tầng Thánh quả khác nhau bằng cách thực hành Thiền Minh Sát (Vipassana).

     

    Hạng người 3-căn thiện này, nếu nỗ lực tu tập thực hành Thiền Quán Minh Sát, thì có thể sẽ lần lượt chứng ngộ được Thức con đường Đạo (magga)[2] và Thức Đạo Quả (phala) của bốn (4) Thánh Đạo & Quả, để trở thành 8 loại người thánh thiện hay 8 bậc Thánh nhân, như sau:

     

    5) Thức Hướng Nhập Lưu (Sotapatti maggattha) [= đang hướng Thức con đường Đạo hay tầng Nhập Lưu, tầng thánh thứ nhất].

    6) Thức Quả Nhập Lưu (Sotapatti phala) [= khi chứng được Quả Nhập Lưu, tầng thánh thứ nhất].

    7) Thức Hướng Nhất Lai (Sakadagami magga), tầng thánh thứ hai.

    8) Thức Quả Nhất Lai (Sakadagami phala), tầng thánh thứ hai.

    9) Thức Hướng Bất Lai (Anagami magga), tầng thánh thứ ba.

    10)Thức Quả Nhất Lai (Anagami phala), tầng thánh thứ ba.

    11)Thức Hướng A-la-hán (Arahatta magga), tầng thánh cuối cùng.

    12)Thức Hướng Quả A-la-hán (Arahatta phala), tầng thánh cuối cùng.

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

    6. Sách & Tài Liệu Tham Khảo

     

    1) “The Roots of Good and Evil” (Những Căn Tốt và Căn Xấu), tác giả Trưởng Lão Nyanaponika Thera, số phát hành “The Wheel No. 251/253”.

     

    2) “The Essence of Buddha Abhidhamma” (Cốt Lõi Vi Diệu Pháp của Đức Phật), tác giả Tiến Sĩ Mehm Tin Mon.



    [1] Lưu ý, theo “Vi Diệu Pháp”, thì lúc này khái niệm Thức và Tâm (Citta) là đồng nghĩa nhau. Vì thế có người gọi là Thức thiện, có người gọi là Tâm thiện – ND

    [2] Tức là đã vào giai đoạn hay chặng của tầng Thánh và đang tu tập hướng đến Thánh Quả của tầng Thánh đó -ND)

     

     


    Gửi ý kiến của bạn
    Tắt
    Telex
    VNI
    Tên của bạn
    Email của bạn
    (Xem: 31342)
    Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
    (Xem: 26228)
    Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
    (Xem: 27535)
    Nội dung kinh này thuyết minh về Như lai tạng, quả đức của Phật. Nói rõ hành giả đoạn trừ phiền não nào, để chứng đắc Nhị thừa quả... HT Thích Đức Niệm dịch
    (Xem: 27926)
    Sa-môn Gotama từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. - Này các Tỷ-kheo, đó là lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
    (Xem: 26722)
    Tác phẩm của Tiến sĩ Thích Minh Châu có nhiều khám phá đáng ngạc nhiên. Ông đã chứng minh rằng bản kinh A-hàm (Àgama) bằng chữ Hán và bản kinh bộ Pàli (Pàli Nikàya) này có rất nhiều điểm tương đồng và cũng khá nhiều dị biệt.
    (Xem: 31238)
    Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
    (Xem: 20280)
    Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
    (Xem: 22960)
    Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
    (Xem: 30076)
    Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
    (Xem: 21593)
    Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
    (Xem: 20280)
    Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
    (Xem: 22682)
    đệ tử Phật thì nên hết lòng, ngày cũng như đêm, đọc tụngquán niệm về tám điều mà các bậc đại nhân đã giác ngộ... HT Thích Nhất Hạnh
    (Xem: 20781)
    Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
    (Xem: 30333)
    Trong thành Vương Xávị cư sĩ tên Hiền Hộ là bực thượng thủ năm trăm vị cư sĩ, các vị nầy đều thọ trì năm giới gìn giữ từ cử chỉ nhỏ nhặt...
    (Xem: 28797)
    Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
    (Xem: 34738)
    Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
    (Xem: 44246)
    Kinh BÁCH DỤ gồm gần một trăm câu truyện ngụ ngôn đầy sinh độngsúc tích ẩn tàng các giá trị triết lý giáo dục nhân sinh do Đức Phật kể ra để dạy về giáo lýgiáo pháp.
    (Xem: 35530)
    KINH PHÁP CÚ là cuốn Kinh chọn lọc những lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế. Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ...
    (Xem: 22559)
    Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
    (Xem: 21383)
    Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
    (Xem: 20698)
    Như Lai nơi nhân địa tu theo tự tánh Viên Giác, chiếu soi bản thể của tự tánh vốn tịch diệt, biết rõ thân tâm thế giới như hoa đốm trên không... Thích Hằng Đạt dịch
    (Xem: 24768)
    Nguyên văn chữ Hán của Kinh Viên Giác chỉ có hơn mười ba ngàn chữ mà bao gồm tất cả giáo pháp đốn tiệm của thượng cănhạ căn... HT Thích Duy Lực dịch
    (Xem: 37935)
    Kinh Hoa Nghiêmbộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân, tư tưởngtâm nguyện của Phật.
    (Xem: 19067)
    Dưới đây là bảng tóm tắt so sánh các bộ Luật Tỳ-kheo hiện đang lưu hành - Bình Anson
    (Xem: 19343)
    Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
    (Xem: 21847)
    Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0365 - Hán dịch: Lương Da Xá; Việt dịch HT Thích Trí Tịnh
    (Xem: 20884)
    CỔ NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích - Việt dịch: Sa-môn THÍCH ÐỔNG MlNH - Nhuận văn và chú thích: Sa-môn THÍCH ÐỨC THẮNG
    (Xem: 29532)
    Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
    (Xem: 35162)
    Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
    (Xem: 28839)
    Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
    (Xem: 32613)
    Hết thảy nội dung được đề cập đến trong tập sách này đều được thể hiện một cách vô cùng sáng tạo, linh hoạt, với rất nhiều ví dụ thích hợp luôn luôn đi kèm theo mỗi vấn đề...
    (Xem: 26233)
    Bốn tâm vô lượng là cõi nước thanh tịnh của Bồ Tát, khi Bồ Tát thành Phật, những chúng sinh thành tựu các đức từ, bi, hỷ, xả sinh về nước ấy... Đoàn Trung Còn, Nguyễn Minh Tiến
    (Xem: 28934)
    Nhất thời, Phật tại Tỳ-da-ly, Am-la thọ viên, dữ đại tỳ-kheo chúng bát thiên nhân câu. Bồ Tát tam vạn nhị thiên, chúng sở tri thức.
    (Xem: 43157)
    Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
    (Xem: 34979)
    Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
    (Xem: 43948)
    Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
    (Xem: 37922)
    Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
    (Xem: 21340)
    Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
    (Xem: 43034)
    Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
    (Xem: 49024)
    Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
    (Xem: 39854)
    Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
    (Xem: 53795)
    Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
    (Xem: 36832)
    Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
    (Xem: 40821)
    Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
    (Xem: 49743)
    Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
    (Xem: 47327)
    Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
    (Xem: 27743)
    Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
    (Xem: 27037)
    Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
    (Xem: 27241)
    Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
    (Xem: 24081)
    Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
    (Xem: 20860)
    Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
    (Xem: 34325)
    Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
    (Xem: 22483)
    Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
    (Xem: 25134)
    Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
    (Xem: 25858)
    Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
    (Xem: 22959)
    Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
    (Xem: 22477)
    Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
    (Xem: 21765)
    Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
    (Xem: 23328)
    Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
    (Xem: 21191)
    “Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
    Quảng Cáo Bảo Trợ
    Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
    Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant