Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Quyển Trung

09 Tháng Ba 201000:00(Xem: 7692)
Quyển Trung

Kinh Đại Thông Phương Quảng
Sám Hối Diệt Tội
Trang Nghiêm Thành Phật 
Hòa Thượng Thích Trung Quán dịch Việt

QUYỂN TRUNG

Không kiêu mạn, ba pháp lợi tự hiển hiện, bốn là dạy người pháp lành không cầu danh lợi, ấy gọi là bốn điều.

Thiện nam tử! Lại có bốn pháp lành khai pháp khí những gì là bốn? Một là thủ hộ chính pháp, hai là tự ích trí tuệ cũng ích cho tiền nhân, ba là thường hành pháp thiện nhân, bốn là chỉ dạy cho người cấu, tịnh, thanh, bạch, đó gọi là bốn.

Thiện nam tử! Lại có bốn pháp được nhân lực trước, chẳng mất căn lành, những gì là bốn? Một là thấy người ta thiếu chẳng cho đó là ngu, hai là đối với người hay sân nộ thường tu tâm từ, ba là thường nói các nhân duyên, bốn là thường niệm Vô thượng Bồ đề, đó gọi là bốn.

Thiện nam tử! Lại có bốn pháp chẳng do người dạy mà hay tự hành sáu ba la mật! Những gì là bốn? Một là thường dùng pháp thí, thí đạo cho người, hai là không nói tội hủy giới cấm của người, ba là khéo biết nhiếp pháp giáo hóa chúng sinh, bốn là hiểu suốt pháp sâu, đó gọi là bốn.

Thiện nam tử! Lại có bốn pháp hay xả thiền định hiện sinh cõi dục! Những gì là bốn? Một là tâm ấy nhu hòa, hai là hay được sức các căn lành, ba là chẳng bỏ tất cả chúng sinh, bốn là thường hay tu sức trí tuệ phương tiện, đó gọi là bốn.

Thiện nam tử! Lại có bốn pháp ở Phật pháp được không thoái chuyển! Những gì là bốn? Một là khỏi chịu vô lượng sinh tử, hai là thường hay cúng dàng vô lượng chư Phật, ba là tu hành vô lượng tâm từ, bốn là tín giải vô lượng Phật tuệ, đó gọi là bốn.

Thiện nam tử! Lại có bốn pháp không đoạn Phật tính! Những gì là bốn? Một là vì chúng sinh không lui bản nguyện, hai là chịu hạnh tín thí, ba là đại dục tinh tiến, bốn là thường hay thân tâm hành Phật đạo, đó gọi là bốn.

 

Bồ Tát Ma ha tát du hành ba cõi, hành mọi hạnh lợi ích chúng sinh, thường tu đạo xuất thế, không đoạn Phật tính.

Khi nói bốn pháp Đại thừa bốn vạn người trời, đều phát tâm Bồ đề, hai muôn năm ngàn người được Vô sinh pháp nhẫn, bốn vạn tám ngàn Bồ Tát được đạt pháp giới nhẫn thiện Phật tuệ.

Khi bấy giờ Phật bảo Ngài Hư Không Tạng Bồ Tát Ma ha tát rằng: "Ngươi nên thụ trì kinh này!".

Ngài Hư Không Tạng Bồ Tát bạch Phật rằng: "Lạy đức Thế Tôn! Kinh này tên gọi là gì và phụng trì thế nào?".

Phật dạy rằng: "Kinh này tên là Đại Thông Phương Quảng, hay phá cảnh giới ma, hoại quân ngoại đạo, tiêu trừ phiền não, giải thoát năm dục, tà kiến trói buộc, phá ngục ba cõi, buông các sinh tử, hướng về nhà Niết bàn, khô héo lâu được nhuần ích, là chủng tử chính nhân, mưa nhân duyên lớn, mưa pháp lục độ, làm cho mầm hoa Tam thừa chúng sinh được chồi nảy tươi tốt, thành tựu nhất thừa Bồ đề cực quả. Thiện nam tử! Ngươi hỏi tên kinh, ta nói như thế, ngươi nên thụ trì!".

 

Khi đó Ngài Hư Không Tạng Bồ Tát bạch Phật rằng: "Lạy đức Thế Tôn! Con từ đời quá khứ ở nơi vô lượng chư Phật, vô lượng hội xứ, trong vô lượng chúng, nghe thấy thảy pháp, thấy thảy sự, thấy thảy tướng, thấy thảy thừa, chưa từng được nghe pháp hiếm có, sự hiếm có, tướng hiếm có, Đại thừa hiếm có này, con xin thụ trì, khiến không đoạn tuyệt.

 

Lạy đức Thế Tôn! Như Lai thường trụ Pháp, Tăng bất diệt, chúng sinh trong ba cõi tự sinh tự diệt, không thấy Như Lai cùng với Pháp, Tăng, nói rằng diệt độ. Chúng con ngày nay nhờ oai thần của Phật du hành ba cõi, thuận theo thời nghi giả nói diệt độ. Lạy đức Thế Tôn! Chúng con cùng với tám muôn cửu viễn Tuệ pháp thân Đại sĩ lưu thông kinh này, khiến cho pháp giới chúng sinh thụ trì đọc tụng, tu hành đúng thuyết, một thời thành Phật, không dám phóng xả. Lạy đức Thế Tôn! Thiện nam tử! Thiện nữ nhân! Sau khi Phật diệt độ ở trong đời ác, nếu có ai thụ trì đọc tụng biên viết kinh này thì được bao nhiêu phúc?".

 

Phật nói: "Thiện nam tử! Nếu người nào đem trân bảo đầy ba ngàn đại thiên thế giới, dùng để bố thí, chẳng bằng người được nghe tên kinh này, phúc đó còn thắng hơn trên, việc đó để lại, nếu người nào lấy mười ngàn thế giới, trong đó đầy trân bảo, đem dùng bố thí, chẳng bằng có người, nhiếp trì kinh này, phúc đó còn nhiều hơn kia, việc đó để lại, nếu người nào lấy mười phương thế giới, trong ấy đầy trân bảo, đem dùng bố thí, chẳng bằng có người biên viết kinh điển Đại Thừa Phương Quảng cho đến một chữ một câu, hoặc là một bài kệ, phúc đó còn nhiều hơn kia, việc đó để lại, tuy thí vô lượng quốc trân bảo, chẳng bằng chí tâm đọc tụng bài kệ, việc đó để lại, tuy thí trong mười ngàn thế giới đầy mạng chúng sinh, chẳng bằng chí tâm giải nghĩa một câu, vì người nói nghĩa một bài kệ, phúc ấy còn hơn kia, là vì lẽ sao? Bố thí tiền của thức ănthế gian bố thí, nuôi sống tính mạng, không ra khỏi thế gian, bố thí pháp Đại thừa để nuôi lớn đạo căn Bồ đề cho chúng sinh, hay nối tam thừa trí tuệ thường mạng. Thiện nam tử! Đọc trì kinh này, vốn là kẻ ác, nay là người lành; tuy là kẻ khổ, nay là người vui; vốn là triền phọc, nay là người giải thoát; tuy là người chưa được độ, nay là người được độ; tuy là kẻ vô trí, nay là bậc luận sư; vốn là kẻ hữu lậu, nay là người vô lậu; tuy là kẻ phàm hạnh, nay là người thánh hạnh; vốn là kẻ mất đạo, nay là người nhập thánh đạo. Thân tuy phàm phu, đọc trì kinh này, trí đồng thánh tuệ, căn bản tuy phiền não, đọc trì kinh này được cộng đồng Niết bàn với chư Phật Như Lai.

 

Ngài Hư Không Tạng Bồ Tát bạch Phật rằng: "Lạy đức Thế Tôn! Như lời Phật nói đây, vốn là phạm hạnh, nay là thánh hạnh, vốn là phiền não, đọc trì kinh này, cộng đồng Niết bàn, với chư Phật Như Lai, phá giới, ngũ nghịch, phỉ báng chính pháp, đọc trì kinh này, đoạn trừ phiền não, cùng được Niết bàn, nghĩa ấy tuy rõ, cúi xin Thế Tôn, vì con diễn nói?".

 

Phật dạy rằng: "Hay thay! Hay thay! Thiện nam tử! Ngươi nay hỏi hay! Ta sẽ đáp hay! Thiện nam tử! Tất cả chúng sinh bởi chẳng được gặp Phật, cho nên tà kiến, phạm giới, phỉ báng chính pháp, nếu Phật ở đời thì không phạm giớiphỉ báng chính pháp, là vì lẽ gì? Cũng ví như ông Trưởng giả chỉ có một con, nặng lòng yêu dấu, khi cha còn ở nhà, ngày đêm dạy bảo, việc ấy việc khác thuận theo; người con hiếu thuận ấy, là nhờ cha dạy bảo, nên không có trái phạm, khi cha đi xa, không có hẹn thời trở lại, người con quên mất, phạm nhiều tội lỗi, bởi không biết thời nào trở lại, nên tưởng là đã chết, bi thương kêu khóc! Lại tựa như khởi nghịch sầu não mất tâm, quên lời cha dạy xưa, giống như bất thuận, nói như báng pháp. Một thời gian lâu người cha ở phương xa lại trở về, đứa con vui mừng nhớ lời cha dạy trước, giữ gìn không trái phạm, bởi được thấy cha, tin rằng cha mình chưa chết, thì không thể cho rằng đứa con đọa tội nghịch, giữ lời giáo sắc của cha, thuận theo mà làm, chẳng phải là phỉ báng.

 

Thiện nam tử! Ông trưởng giả tức là Như Lai, đứa con tức là tất cả chúng sinh, khiến ấy, tức là giáo giới, đi xa tức là đi giáo hóa phương khác, không thấy cha tức là cho đã chết, sầu não tức là che tối, chẳng giữ tức là phạm giới, nói diệt tức là tội nghịch, vì mê lý tức là tội phỉ báng, đức Như Lai Thế Tôn du hóa nơi khác trở về, chúng sinh nhìn thấy bèn sinh lòng tin, biết rằng Phật chưa diệt, Phật vì chúng sinh thuyết pháp đem lại bổn tâm, chẳng thể gọi rằng phạm giới, bởi chẳng biết diệt, nên chẳng thể cho rằng đọa tội nghịch, thuận giáo, người hành theo đúng lý được giải ngộ, nên không thể cho rằng báng pháp.

 

Thiện nam tử! Người đọc trì kinh này tức hay tiêu trừ tội trọng các phiền não từ vô lượng kiếp sinh tử. Nghe tên kinh này, tức là được nghe tên Phật, được thấy kinh này tức là được thấy Phật, trì kinh này tức là trì thân Phật, hành kinh này tức là hành Phật sự, thuyết kinh này tức là thuyết Phật sự, giải kinh này tức là giải nghĩa Phật, nếu hành Phật sự khéo giải nghĩa Phật, con người như thế, vĩnh viễn không còn phiền não, là vì sao? Vì được gặp kinh, đoạn trừ phiền não.

 

Thiện nam tử! Bằng tám muôn kiếp, dùng làm một ngày, lấy ba mươi ngày làm một tháng, mười hai tháng làm một năm, đem số năm ấy, qua trăm ngàn ức kiếp được gặp một đức Phật, lại qua số đó được gặp một đức Phật, được gặp kinh này lại hơn số nói trên, được gặp kinh này, tức là được gặp mười phương ba đời chư Phật, vì thế người có trí hãy nên thụ trì, đọc tụng, biên viết và giải thuyết, hay trừ được trọng tội tà kiến vô minh phiền não kết lậu, trụ nơi phúc điền, và hay trừ được vô lượng cúng dàng của thế gian.

 

Ngài Hư Không Tạng Bồ Tát bạch Phật rằng: "Lạy đức Thế Tôn! Ngài Bích Chi Phật còn chẳng hay tiêu được cúng dàng của thế gian phương chi kẻ phàm phu có thể tiêu được cúng dàng?".

 

Phật nói: "Thiện nam tử! Bích Chi Phật không tiêu được cúng dàng lẽ đó không phải, tuy không hay thuyết pháp độ nhân, nhưng nhập thiền tam muội, từ tam muội trở dậy, khởi đại thần thông độ cho tất cả chúng sinh là tiêu được cúng dàng!".

 

Khi bấy giờ Ngài Hư Không Tạng Bồ Tát bạch Phật rằng: "Lạy đức Thế Tôn! Trong kinh có nói: kẻ tà kiến phá giới không được cùng ở một quốc độ, uống chung một nước sông, thuyết giới, Bồ Tát, sám hối, tự tứ, người đó đã lui mất thánh đạo, không được đứng vào số trong Tăng chúng, tại sao lại nói, được tiêu cúng dàng? Nếu tiêu được cúng dàng, tức là cùng với chư Phật, đồng hưởng ngôi Ứng Cúng, hơn ngôi La HánBích Chi Phật, cúi xin đức Thế Tôn phân biệt nói rõ cho? Con nghe rồi, con lại vì chúng sinh giải thuyết như lời Phật dạy, khiến họ được giải thoát?

 

Phật bảo ngài Hư Không Tạng Bồ Tát rằng: Hay thay! Hay thay! Thiện nam tử! Ngươi hôm nay đầy đủ lòng từ bi, thương xót chúng sinh, mà hỏi việc này, vậy hãy nghe cho kỹ, nghe cho kỹ, và suy xét nhớ lấy cho khéo, ta sẽ vì ngươi phân biệt giải thuyết! Thiện nam tử! Cảnh giới của kinh này, không phải các vị Thanh Văn, Duyên Giác có thể biết và cũng không phải cảnh giới suy nghĩ của các ma, ngoại đạo, phàm phu, duy Phật có thể biết, ngươi cũng được đạt. Thiện nam tử! Ta thường hành đạo Bồ Tát, thuyết bố thí, hành bố thí, không quan sát tốt xấu, thành tựu ruộng phúc, mà nói rằng: bố thí cho loài súc sinh, được trăm phúc báo, bố thí cho kẻ xiển đề, được ngàn phúc báo. Thiện nam tử! Kẻ đoạn thiện căn, chết đọa vào hạng xiển đề, kẻ không thẹn hổ, chết đọa vào hạng súc sinh, súc sinh, xiển đề quả báo thục, thì có thể nhận cúng dàng, cho người trồng ruộng phúc, phương chi người đó, là nghĩa như thế, kinh Đại Thừa Đại Thông Phương Quảngoai đức lớn không thể nghĩ bàn, hay khiến người phá giới, ngũ nghịch, phỉ báng chính pháp, tà kiến phiền não, được trừ diệt hết, năng thụ cúng dàng.

 

Ngài Hư Không Tạng Bồ Tát bạch Phật rằng: "Lạy đức Thế Tôn! Chư Phật Như Lai bất khả tư nghị, kinh Đại Thông Phương Quảng, có lực oai thần cũng bất khả tư nghị, người thụ trì kinh công đức cũng bất khả tư nghị".

Phật nói: "Phải rồi! Phải rồi! Ngươi nói rất đúng, được bất khả tư nghị, vô biên công đức".

 

Khi bấy giờ đức Thế Tôn, bảo Ngài Hư Không Tạng Bồ Tát Ma ha tát rằng: "Thiện nam tử! Ta nhớ thuở xưa đời quá khứ có kiếp gọi là Thanh tịnh, ta ở kiếp đó cúng dàng chín mươi hai ức na do tha đức Phật, bởi hành pháp Tiểu thừa có rất nhiều tội lỗi, phạm giới vô lượng, nên không thấy các đức Như Lai thụ ký cho ta, lại qua kiếp ấy, đến kiếp gọi là Nhạo Kiến, ta ở kiếp đó, cúng dàng bốn mươi hai ức chư Phật Như Lai, cũng không thấy các đức Như Lai ấy thụ ký cho ta, lại qua kiếp ấy, đến một kiếp tên là Phạm A?, ta ở kiếp đó, cúng dàng hai mươi hai ức chư Phật Như Lai, cũng không thấy các đức Như Lai ấy thụ ký cho ta, lại qua kiếp ấy, đến một kiếp tên là Tâm Hỷ, ta ở kiếp đó cúng dàng, tám mươi tư ngàn chư Phật Như Lai, cũng không thấy các đức Như Lai ấy thụ ký cho ta, lại qua kiếp ấy, đến một kiếp tên là Cứu Khổ, nước tên là Trang Nghiêm, đức Phật hiệu là Đại Thí Như Lai, Ứng Cúng, Chính Biến Tri đầy đủ mười hiệu ta ở kiếp đó cúng dàng bốn mươi ức đức Phật, được nghe kinh này, dứt hết phiền não, tự mình chưa được thấy, khi đó ta đem tất cả các món cúng dàng mà dâng chư Phật, cũng không thấy các đức Như Lai ấy thụ ký cho ta. Thiện nam tử! Thuở xưa ta ở trong từng đó kiếp, cúng dàng nhần ấy chư Phật Như Lai, tôn trọng tán thán, được trừ phiền não, oai nghi cấm giới, đầy đủ hạnh Thanh Văn, tu phạm hạnh trong sạch, học hạnh bố thí, giữ giới tất cả và hạnh đầu đà, xa lìa kiêu mạn, sân huệ, ngu si, nhẫn nhục từ tâm, nghe như thế nào nói như thế ấy, chăm chỉ tinh siêng, tất cả chỗ được nghe, nhận giữ không quên, ở nơi xa vắng, vào các phép thiền định, khi ra thiền định, tùy nơi tuệ văn, đọc tụng suy xét, cũng không thấy các đức Như Lai thụ ký cho ta, là vì lẽ sao? Là vì thụ cấm giới hủy phạm rất nhiều, bởi đắm sâu pháp Thanh Văn, hạnh Nhị Thừa, vì không được nghe kinh Đại thừa Phương Quảng, bởi nghĩa đó các vị Bồ Tát Ma ha tát, nên xa lìa hạnh Nhị thừa, tu tập kinh điển Đại thừa Phương Quảng thời được thụ ký, dầu ta lấy một kiếp, dầu dứt một kiếp, mà nói danh hiệu Phật, cũng không thể hết được.

 

Thiện nam tử! Qua thời đó về sau, ta được gặp đức Phật Định Quang, Ngài vì vô lượng đại chúng nói kinh Đại thừa Đại Thông Phương Quảng, ta khi đó được nghe được thấy đức Phật, Ngài nói kinh này, ta thụ trì đọc tụng suy xét nghĩa lý, liền đắc pháp vô sinh nhẫn, ngay thời đó đức Định Quang Như Lai thụ ký cho ta, Ngài nói: "Đời sau ngươi được làm Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni Như Lai, Ứng Cúng, Chính Biến Tri, đủ mười hiệu. Bởi vậy Thiện nam tử nên thụ trì kinh này, chóng chứng ngôi Phật quả, phương chi tiêu cúng dàng của trời, người. Thiện nam tử! Thế cho nên kinh điển Đại thừa là kho tàng báu có lực bố thí không thể nghĩ bàn; huệ thí, cho kẻ phá giới, bần cùng, theo phép này như châu báu.

 

Thiện nam tử! Đại thừa như biển lớn, Tiểu thừa như vết chân, Đại thừa như núi Tu Di, Tiểu thừa như tổ kiến, Đại thừa như nhật nguyệt, Tiểu thừa như ánh lòe, thừa này là Đại thừa, không thể nghĩ bàn, dung nạp tất cả chúng sinh, cũng như hư không, trong tất cả mọi thừa, thừa này là bậc nhất, Đại thừa này (là vô thượng thừa), Tiểu thừa có hạn lượng, không hay độ tất cả, duy có Vô thượng thừa, độ hết thảy chúng sinh, nếu hành theo vô lượng hư không Đại thừa này, hư không không có lượng, cũng không có hình sắc, Đại thừa cũng như thế, vô lượng, vô chướng ngại, tất cả chúng sinh nhờ ở Đại thừa, hãy quan sát tướng của thừa này, quảng bác dung nạp rất nhiều, trong vô lượng kiếp nói công đức của Đại thừa và hành theo của thừa này không thể cùng tận được, tất cả trong các thừa, Đại thừa này tối thắng, chí tâm thụ Đại thừa, được tới cây Bồ đề, không ràng buộc, không chướng ngại, vô thượng thừa này, thắng tất cả hạ liệt thừa, ngồi dưới cây đạo, quan sát mười hai duyên, thương xót chúng sinh nên thuyết kinh Đại thừa, mười phương các chúng sinh, nếu tu theo Đại thừa này, cũng không tăng giảm, dung thụ như hư không, Đại thừa chẳng nghĩ bàn, thần thông đại trí tuệ, ấy thế các chúng sinh, nên huân tu tập, tất cả chúng cõi trời, thiên mangoại đạo, muốn trừ phiền não buộc, hãy quy y Đại thừa, đầy đủ sáu thần thông, ba minh, ba đạt môn, có thể dẹp ma và ngoại đạo, cùng các bọn tà kiến, Đại thừa tối thiết yếu, hay phá các phiền não, đầy đủ mọi căn lành, cho nên lực Đại thừa, kỳ thực khó nghĩ bàn, tất cả thế gian pháp, cùng với pháp xuất thế, pháp hữu học, vô học, nhiếp ở trong Đại thừa. Nếu có chúng sanh hành đạo ác, và thân gần kẻ tà kiến, ác trí thức, nên phải tránh xa ngay, quay lại quy Đại thừa. Nếu người chẳng ham cầu học Đại thừa, chẳng có thể phá được phiền não, muốn cầu giải thoát, hãy học Đại thừa. Nếu có đại nhân giải đại sự, nghe nói Đại thừa tâm hoan hỷ! Nên biết đó tức là người Đại thừa, được tâm vắng lặng đủ thần thông, đều bởi Đại thừa tự trang nghiêm. Nếu có người nào hành đại hạnh, đó là không đoạn giống Tam bảo. Nếu có người nào hướng theo pháp Đại thừa, người đó liền được vô lượng phúc, hay tới mười phương các thế giới, cúng dàng mười phương vô lượng Phật, như thế kinh Đại thừa Phương Quảng thế gian các thừa không thắng nổi, đầy đủ oai đức phá sinh tử, cho nên Đại thừa khó nghĩ bàn, được sắc lực, được tự tại, đầy đủ thành tựu pháp thân thường. Nếu ai nương theo Đại thừa này, người đó được hưởng vô thượng lạc, xả mình đem bố thí, tu đạo từ bi, cho nên được vô thượng thừa, trì giới tinh tiến tu phạm hạnh, hay dùng thần thông che nhật nguyệt, đều bởi tu hạnh Đại thừa đã từ lâu, nên tự tâm cần tu thường tinh tiến, người đó được Đại thừa. Nếu phải vô lượng khổ não báo, tu theo Đại thừa được trừ diệt hết, nếu hay an trụ điển Đại thừa, được hưởng khoái lạc như chư Phật, đầy đủ chính niệm thường tinh tiến, được tứ như ý thần thông lực, nương theo chính pháp và chân nghĩa, giai do từ lâu tu kinh Đại thừa, đầy đủ mười lực vô sở úy, ba mươi hai tướng đẹp rất trang nghiêm, kim cương tam muội nhất thiết trí, giai do từ lâu tu Đại thừa.

 

Thiện nam tử! Nếu người nào trì kinh Đại thừa này, từ một chữ, một câu, cho đến một bài kệ, được thoát hết các khổ nạn, trọn không đọa ác đạo, được đến chốn an lạc, ở đời ác sau này, nếu ai được bản kinh này, ta đều thụ ký cho, chắc chắn thành Phật đạo. Nếu trì kinh này, Phật thường gần người đó, người đó thường gần Phật, người đó hộ Phật pháp, chư Phật hộ người đó, được đại thần thông tuệ, hay chuyển đại pháp luân, độ các thú sinh tử, hay phá hoại ma quân, ta ở chỗ đức Phật Định Quang, nghe kinh phương tiện này, trụ nhẫn được thụ ký, hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Sau khi ta diệt độ, nếu ai học kinh này, ta thụ ký cho người đó, người ở đời vị lai, hay hiểu được nghĩa kinh, vì những người ngu mà nói, Phật tuy chẳng ở đời, chẳng đoạn ngôi Tam bảo, cũng như Phật hiện tại, vì sao? Vì ta từ vô lượng Phật, thụ trì kinh điển này, ở trong đời mạt kiếp, vì người mà diễn thuyết, ấy là được ba mươi hai tướng.

 

Khi bấy giờ Ngài Hư Không Tạng Bồ Tát bạch Phật rằng: "Lạy đức Thế Tôn! Tất cả các đức Phật đều nói ba mươi hai tướng, nay Phật cũng nói ba mươi hai tướng, vậy nhân nghiệp gì mà được thành tựu, cúi xin đức Thế Tôn chỉ bảo cho?".

 

Phật bảo Ngài Hư Không Tạng Bồ Tát rằng: "Thiện nam tử! Như Lai thành tựu vô lượng công đức, cho nên được thành ba mươi hai tướng, dầu ta nói đến cùng kiếp cũng không hết, nay sẽ ta vì ngươi nói lược qua mà thôi: Như Lai chí tâm hộ trì tịnh giới nên được tướng lòng bàn chân bằng, tu hết thảy hạnh huệ thí, nên được tướng lòng bàn chân có ngàn vòng xoáy, chẳng lừa dối tất cả chúng sinh nên được tướng gót chân đầy đặn, hộ chính pháp nên được tướng ngón tay thon dài, không phá hoại người, nên được tướng tay chân có màng lưới giao tiếp, dùng mắt nhiệm mầu dâng thí nên được tướng tay chân mềm mại, đem món ăn trong sạch bố thí nên được bảy xứ đầy đặn, ham vui nghe pháp nên được tướng vế tròn trặn như con hươu, che giấu tội lỗi người nên được tướng mã âm tàng, tu pháp thập thiện nên được tướng trên thân mình như sư tử vương, thường đem thiện pháp giáo hóa chúng sinh nên được tướng khuyến cốt bình mãn, cứu giúp người khỏi sợ hãi nên được tướng cánh tay khuỷu tay tròn trặn, thấy người kiến tạo ngôi Tam bảo vui mừng giúp đỡ nên được tướng tay dài chấm gối, thường tu muôn pháp lành nên được tướng thân thanh tịnh, thường cho thuốc người có bệnh nên được tướng ăn vật gì đến cố tất hiện, thường phát trang nghiêm tu thiện pháp nên được tướng hàm sư tử, đối với tất cả chúng sinh một lòng bình đẳng nên được tướng bốn mươi hai cái răng, vui hòa hợp không tranh kiện nên được tướng răng kín, đem trân bảo bố thí nên được tướng răng bằng, thân, miệng, ý trong sạch nên được tướng hai răng bạch, giữ miệng bốn điều lỗi nên được tướng lưỡi rộng dài, thành tựu vô lượng công đức nên được tướng vị trung thành thượng vị, thường đem lời dịu dàng nói với chúng sinh nên được tướng phạm âm, tu tập từ tâm nên được tướng mắt nhỏ dài, chí tâm cầu đạo Vô thượng Bồ đề nên được tướng lông mi như ngưu vương, khen ngợi công đức của người nên được tướng bạch hào, cung kính cúng dàng cha mẹ, Hòa thượng, A Xà Lê sư nên được tướng nhục kế, ham thuyết pháp Đại thừa nên được tướng thân mềm mại, vui mừng giải tọa cụ nên được tướng kim quang minh, xa lìa việc xúm nhau nói chuyện thế gian nên được tướng mỗi mỗi chân lông sinh sắc xanh, vui chịu lời dạy răng của bạn lành Sư trưởng nên được tướng lông trên mình nhỏ mướt, chẳng đem việc ác gán cho chúng sinh nên được tướng tóc sắc tinh, thường khuyên chúng sinh tu tam muội nên được tướng viên mãn như Ni câu đà, sinh xứ nào cũng ham vui tạo tượng Phật nên được tướng sức như đại lực sĩ.

 

Thiện nam tử! Bồ Tát Ma ha tát thành tựu vô lượng công đức nên được ba mươi hai tướng như vậy.

 

Ngài Hư Không Tạng Bồ Tát bạch Phật rằng: "Lạy đức Thế Tôn! Con quán các pháp đều không có tướng mạo, lại quán Như Lai cũng chẳng phải hạnh đó, sao Phật lại nói tu rộng mọi hạnh? Con quán chư Phật Pháp Tăng, khổ, tập, diệt, đạo, ngũ ấm, lục nhập, thập bát giới, mười hai nhân duyên, các ba la mật, nội ngoại nhân quả, không, vô, tướng, nguyện, chẳng thấy sinh ra, chẳng thấy diệt mất, như dối, như hóa, như bóng, như vang, như trăng dưới nước, như lông rùa, như sừng thỏ, như hoa trong hư không, như thạch nữ có con, như mặc áo bóng cỡi nhiều chim trắng, như có, như không, và lấy có không, chẳng có chẳng không, chẳng thường, chẳng đoạn, chẳng sinh, chẳng diệt, chẳng trong chẳng ngoài, chẳng kiến, chẳng thức, do như hư không, tại sao Ngài nói ta tu các pháp? Con quán Như Lai cũng chẳng phải chúng sinh, thọ mạng, sĩ phu, cũng chẳng phải nhãn sắc, chẳng phải sắc tướng hành, chẳng phải tai, chẳng phải thanh, chẳng phải thanh tướng hành, chẳng phải mũi, chẳng phải hương, chẳng phải mũi hương tướng hành, chẳng phải lưỡi chẳng phải mùi tướng hành, chẳng phải thân, chẳng phải xúc tướng hành, chẳng phải ý, chẳng phải pháp, chẳng phải ý pháp tướng hành, chẳng phải thức, chẳng phải sắc, chẳng phải thức sắc tướng hành, chẳng phải sắc, chẳng phải khổ, chẳng phải sắc khổ tướng hành, chẳng phải ta, chẳng phải nguyện, chẳng phải hành, chẳng phải ấm, chẳng thực, chẳng hư, chẳng tụ, chẳng tán, chẳng ra, chẳng vào, thụ, tưởng, hành, thức cũng lại như thế, không đi, không lại, không có trụ xứ, không có tâm ý và ý thức, không có nghiệp thân, miệng, ý, chẳng một, chẳng hai, không có quá khứ, hiện tại, vị lai, chẳng cấu, chẳng tịnh, không có ta và chúng sinh, thọ mạng, sĩ phu, chẳng thường, chẳng đoạn, không sinh, không diệt, không tu, không hành, không xả, không thụ, rốt ráo thường trụ, sao Phật lại nói rộng tu mọi hạnh?

 

Khi bấy giờ đức Phật khen Ngài Hư Không Tạng Bồ Tát Ma ha tát rằng: "Hay thay! Hay thay! Thiện nam tử! Ngươi ở thời quá khứ từng đã cúng dàng vô lượng chư Phật, đã thấu hiểu lâu nghĩa không của Đại thừa vô thượng, suốt biết muôn pháp đều quy không tịch, cũng như Phật rốt ráo thường trụ. Thiện nam tử! Ví như hạt châu lưu ly quý báu, tuy ở trong bùn trải qua ngàn năm, tính nó vốn trong sạch, ra khỏi bùn vẫn còn bản chất. Các người nay cũng như thế, thấu rõ pháp tướng tính vốn thanh tịnh, các ngươi tuy ở nơi ba cõi trong đám bùn lầy năm món ô trược giúp Phật để hoàng dương giáo hóa, cũng không bị bùn làm ô uế, bởi không bị ô uế nên hỏi ta nghĩa đó. Thiện nam tử! Hãy để ý nghe, ta nói cho biết! Tất cả muôn pháp, thực ra không có tướng mạo, có văn tự nên nói có pháp, trong pháp khôngvăn tự, trong văn tự không có pháp, vì lưu bá nên nói có văn tự, trong văn tự cũng không có Bồ đề; trong Bồ đề cũng không có văn tự, đệ nhất nghĩa đế, tuy không có văn tự, trong đạo thế tục nói có văn tự, chúng sinh, Phật tính, Vô thượng Bồ đề chẳng lìa văn tự. Thiện nam tử! Thực ra nói cho đúng, Như Lai vô tận vô sinh, chẳng tu, chẳng hành, lìa các sự tu hành thì không nhập chính vị, cũng chẳng thoái chuyển, nhất sinh, chẳng sinh cõi trời Đâu Suất Đà, chẳng từ đó mà hạ sinh nhân gian, chẳng ở đời, chẳng ở thai, tất cả các phát tâm không trụ trược, cũng chẳng nói ta đã qua khỏi sinh già bệnh chết, cũng chẳng nói trong bốn phương, mỗi phương đi bảy bước, cũng chẳng tự nói: Ta là bậc Vô thượng Tônthế gian, chẳng ở trong cung, vui cùng thế nữ, chẳng tập những việc kỹ nhạc của thế gian, cũng chẳng học bàn mã giáo lực, muốn độ chúng sinh thị hiện lão nhân, vì hoại tham thân, thị hiện bệnh khổ, vì hoại tham thọ, thị hiện tử tướng, vì hoại tham dục và ngã, ngã sở, thị hiện Sa môn, vì khiến chúng sinh chẳng cầu thân Phạm Thiên, Đế Thích, cần cầu pháp xuất thế vô thượng, vượt ra cung thành thị hiện xuất ly ba cõi ràng buộc, và thị hiện chẳng phải quả tiền hậu, thị hiện không sân ái, ấy cho nên ba mươi hai tướng trang nghiêm cho thân. Vì chỉ cho chúng sinh ruộng phúc tốt lành, cắt bỏ chu la phóng xả anh lạc, cho ngựa trở về, phóng siển đà la, thị hiện xa lìa tất cả phiền não, hiện cắt bỏ râu tóc, thị hiện tham trược tất cả mọi pháp, thụ trì áo cà sa thị điều phục chúng sinh, từ nơi Uất đà gia la, tham hỏi thụ pháp, là thị hiện phá hoại tâm tự cao, sáu năm khổ hạnh, vì ngoại đạo, hiện thụ ăn uống, tùy pháp thế tục, hiện thụ dược thảo, thị việc tri túc, ngồi trên đệm cỏ, tỏ sự hoại kiêu mạn, chư Thiên, Long thần, tán thán cung kính, thị hiện quả báo công đức trang nghiêm, hàng phục ngoại đạo, tỏ sức dũng mãnh, tay phải chỉ xuống đất, tỏ lực tác phúc, đại địa chấn động, tỏ sự báo ân tu vô tướng, nguyện đắc đạo Vô thượng Bồ đề, thị hiện biết suốt các pháp tướng, quán pháp bình đẳng nên gọi là Phật, trí tuệ Phật không ai thắng nổi, thuyết pháp thiết yếu, biết Phật quá khứ, hiện tại, vị lai, theo nghĩa đó nên gọi là Như Lai, thấy biết rành rành những việc ba đời, pháp lành chẳng lành, nên gọi là Tát bà nhã, lời nói chân thật nên gọi là Thiên Nhân Sư, nếu học giả hay tác quán như thế, gọi đó là Bồ Tát, nếu tác quán khác chẳng thể gọi Bồ Tát, gọi là lừa dối tất cả chư Phật.

 

Thiện nam tử! Tất cả chư Phật chẳng xuất, chẳng nhập, chẳng sinh, chẳng diệt, vì độ chúng sinh xướng ngôn xuất thế, vì độ chúng sinh, xướng ngôn diệt độ.

Ngài Hư Không Tạng Bồ Tát bạch Phật rằng: "Lạy đức Thế Tôn con thực biết pháp tướng lý không từ lâu, chư Phật Như Lai không xuất hiện, không diệt một, không sinh nơi vương cung, không tịch diệt dưới cây song thụ, tất cánh thường trụ, vì độ chúng sinh tu các hạnh khổ, mà nhập Niết bàn thực không động chuyển, chư Phật Như Lai, chân thực thường tồn, ứng thân ba cõi, hiện năm chưởng pháp thân, những gì là năm:

 

Một là Thực tướng pháp thân,

Hai là Công đức pháp thân,

Ba là Pháp tính pháp thân,

Bốn là Ứng hóa pháp thân,

Năm là Hư không pháp thân.

 

Sở dĩ gọi Thực tướng pháp thân, và công đức pháp thân là vì độ chúng sinh, ra công tích hạnh vạn thiện tròn đầy, nên gọi là Công đức pháp thân.

Pháp tính pháp thân, nghĩa là đạt ngộ tất cả pháp tướng, cùng tận nghĩa lý, từ cảnh mà giải tỏ nghĩa không, không giải viên mãn, từ cảnh mà được tên nên gọi là Pháp tính pháp thân.

Thế nào gọi là Ứng hóa pháp thân? Như Lai xuất thế ứng đủ năm cõi thiện ác hiện hết, cứu tế cho muôn vật, từ chỗ hóa vật được tên, nên gọi là Ứng hóa pháp thân.

Sở dĩ Hư Không pháp thân nghĩa là: Hư không vô biên, pháp thân cũng vô biên; hư không bất khả độ lượng, pháp thân cũng bất khả độ lượng. Thân của Như Lai cũng như cõi thái hư, vì độ chúng sinh, ứng hiện ra thân năm phận, nên biết rằng: Như Lai vô sinh vô diệt, các pháp cũng thế! Vì độ chúng sinh nên Phật hiện pháp hưng.

 

Khi bấy giờ Phật bảo Ngài Hư Không Tạng Bồ Tát rằng: "Thiện nam tử! Ngươi với Như Lai cùng giải pháp tướng, tất cả cảnh giới không chướng không ngại!

 

Thiện nam tử! Đời vị lai có một kiếp tên là Thanh Tịnh, quốc tên là Khoái Lạc, nước ấy hết dùng các vị đại Bồ Tát luận nghĩa Đại thừa, qua không nghe thấy tên nhị thừa, huống chi là ác đạo. Ở kiếp đó ngươi được làm Phật hiệu là Thanh Tịnh Trang Nghiêm Như Lai, Ứng Cúng, Chính Biến Tri. Phương lớn các phương khác đều tới nghe nhận kinh Đại thừa Đại Thông Phương Quảng. Cho nên tất cả chúng sinh nếu được nghe thấy tên Bồ tát Hư Không Tạng nên lễ bái cúng dàng sẽ được sinh sang thế giới Khoái Lạc kia, nên biết người đó chẳng qua mười đức Phật, khiến được thụ ký.

 

Kinh Đại Thông Phương Quảng Sám Hối

Diệt Tội Trang Nghiêm Thành Phật

 

Quyển Trung Hết

Khể thủ Nhất tâm kính lễ.
Nguyện Sư trưởng, phụ mẫu pháp giới chúng sinh diệt tội thành Phật.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29900)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27182)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21773)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22234)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23613)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20431)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20056)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21949)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24759)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18994)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24772)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30987)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23995)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27766)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26527)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21329)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23233)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38142)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18806)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18439)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19990)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19052)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23175)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23893)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22822)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22927)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29588)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20648)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18714)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15850)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18865)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19689)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20160)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19958)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18130)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22949)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34182)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16425)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16922)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39270)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26084)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20100)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18864)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24069)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29152)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22906)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30970)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21014)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26862)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20679)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26269)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23340)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19825)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24691)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30048)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20231)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20410)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15146)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15841)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23911)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant