Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

10. Phẩm Pháp Sư

26 Tháng Sáu 201200:00(Xem: 7347)
10. Phẩm Pháp Sư

KINH PHÁP HOA GIẢNG GIẢI
Lê Sỹ Minh Tùng
PL. 2556 DL. 2012

Phẩm PHÁP SƯ

Download Giọng Đọc: Nguyên Hà

 

Pháp sư là vị thầy thông hiểu chánh pháp, sống với chánh pháptruyền bá chánh pháp, mà pháp được nói là kinh Diệu Pháp Liên Hoa tức là Tri Kiến Phật vốn đã có sẵn trong mỗi chúng sinh. Do đó Pháp sư Pháp Hoa là vị thầy truyền bá, giảng nói, thọ trì, đọc tụng kinh Pháp Hoa. Vì trong tất cả mọi chúng sinh đều có Tri Kiến Phật giống y như Phật nên Ngài mới thọ ký cho đời sau sẽ thành Phật. Do đó nếu chúng sinh không có sẵn chất vàng này thì Phật không bao giờ dám thọ ký cho ai cả vì Ngài không phải là đấng thần linh, nắm toàn quyền thưởng phạt trong tay. Vì thế thọ ký chẳng qua là lời khuyến khích của đấng đạo sư để giúp con người tăng thêm năng lực mà tự mình vun bồi phước đức, công đức và phát triển trí tuệ để đạt đến cứu cánh tối thượngthành Phật. Nói cách khác tuy Phật có thọ ký cho chúng sinh, nhưng chính sinh phải tự mình hóa giải hết vô minh phiền não để chứng nghiệm chân lý chớ Phật không cho ta quả vị Phật được.

Để dạy cho tám muôn Đại Sĩ, khi bấy giờ Phật nói với Bồ-tát Dược Vương rằng:

-Trong đại chúng đầy đủ hạng người Chư Thiên, Long Vương, Càn-thát-bà, A-tu-la…Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Thanh Văn, Duyên Giác cho đến những người cầu thành Phật đạo. Không để riêng ai, nếu người nào ở trước Phật nghe kinh Diệu Pháp Liên Hoa, một câu một bài kệ nhẫn đến một niệm tùy hỉ, Như Lai đều thọ ký họ là người sẽ thành tựu quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Đối với Phật nhãn thì Ngài nhìn tất cả đều là chúng sinh tức là ai ai cũng đều có Tri Kiến Phật nghĩa là đã có đầy đủ nhân tố tức là có hột giống Phật để tu thành Phật. Vì thế nếu chúng sinh nghe kinh Pháp Hoa ngay cả chỉ cần một câu hay một bài kệ với tâm tùy hỉ thì cũng được Phật thọ ký cho thành Phật. Trong pháp hội này có đầy đủ mọi hạng người từ Thanh Văn, Duyên Giác, trời người, chư thiên, long vương, quỷ thần đều được Phật thọ ký hết, không bỏ sót một ai.

Phật dạy tiếp: Sau Như Lai diệt độ, nếu có người nghe kinh Diệu Pháp Liên Hoa một câu một bài kệ cho đến một niệm tùy hỉ, Như Lai cũng thọ ký cho quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Người nào thọ trì, đọc, tụng, giảng nói, biên chép kinh Diệu Pháp Liên Hoa cung kính cúng dường bằng các thứ trân bảo, hương thơm, trang nghiêm đẹp đẽ… Dược Vương nên biết các người đó đã từng cúng dường mười muôn ức Phật, đã thành tựu đại nguyện, vì thương xót chúng sanh mà sanh vào nhân gian đấy.

Tuy chúng ta sinh vào thời không có Phật, nhưng dựa theo kinh Pháp Hoa đức Phật dạy rằng sau khi Ngài nhập diệt, có người nghe kinh Pháp Hoa cho dù chỉ là một câu, một bài kệ, hay một niệm với tâm hoan hỉ thì cũng được Phật thọ ký sẽ thành Phật. Tại sao lại phải hoan hỉ? Hoan hỉhân hoan chấp nhận rằng trong ta đã có sẵn Tri Kiến Phật tức là Phật nhân rồi sau đó nỗ lực tinh tấn tu hành thì sẽ đạt đến Phật quả. Vì thế người hội nhập Pháp Hoa là người lúc nào cũng biết rằng mình là Phật, chúng sinh là Phật, ai ai cũng là Phật thì từ đó tinh thần vô ngã vị tha sẽ nở rộng trong tâm vì cảm nhận được nỗi khổ của người là nỗi khổ của mình và niềm vui của người cũng là niềm vui của chính mình.

Người nào thọ trì, đọc tụng, giảng nói, biên chép được thì người đó là Pháp sư Pháp Hoa nghĩa là người đó phải tin và hiểu nghĩa lý của kinh Pháp Hoa thấu suốt.

Cung kính cúng dường bằng các thứ trân bảo, hương thơm đẹp đẽ để cúng dường kinh Pháp Hoa tức là cúng dường mười muôn ức Phật…không có nghĩa là chúng sinh phải tìm những thứ trân bảo quý giá đắc tiền để cúng dường chư Phật mà thân ý kinh muốn nói là chúng sinh phải cố gắng vun bồi cái tánh giác tròn đầy của mình trong mọi sinh hoạt, mọi hoàn cảnh. Đó là phải giữ thân, khẩu, ý thanh tịnh. Một ý niệm lành là đã cúng dường cho một vị Phật, một lời nói thiện là đã cúng dường cho một vị Phật khác, một hành động tốt là đã cúng dường cho một vị Phật nữa. Cứ thế mà làm thì những chủng tử thiện sẽ đưa con người trở về gần với chơn tánh của mình tức là đã cúng dường hằng sa chư Phật rồi.

Dược Vương! Nếu có người hỏi trong thời vị lai, những chúng sanh nào sẽ được thành Phật thì nên chỉ những người vừa kể trên mà nói rằng những người đó sẽ thành Phật. Vì sao? Nếu có người trai lành, gái tốt nào thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói dầu là một câu của kinh Diệu Pháp Liên Hoa và dùng các thứ hương hoa, báu vật mà cúng dường, thì người đó đáng được nhân gian chiêm ngưỡngcúng dường như cúng dường Phật vì đó là hàng Đại Bồ tát đã thành tựu Chánh Giác nhưng vì thương chúng sanh mà nguyện sanh trên đời để phân biệt giảng nói kinh Pháp HoaDược Vương nên biết ! Người đó từ bỏ phước báu thanh tịnh để sanh vào đời trược ác, vì chúng sanhtruyền bá giảng nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Sau Như Lai diệt độ, nếu có người trai lành gái tốt có thể vì riêng một người mà nói kinh Pháp Hoa nhẫn đến một câu kinh phải biết người đó là sứ giả của Như LaiNhư Lai sai làm việc của Như Lai, còn nói chi người ở trong đại chúng vì nhiều người giảng nói !

Tuy kinh có nói ở đời sau có những Pháp sư truyền giảng kinh Pháp Hoa, nhưng truyền giảng ở đây là phải nói đúng ý kinh, hợp với chủ đích của kinh, nói đúng chân lý chớ không đưa người nghe vào mê hồn trận nào là tôn thờ, lạy lục, lễ bái, cầu xin Phật hay Bồ Tát thì đây đâu phải là Pháp Hoa tức lả chỉ thấy hình tướng mà không thông được lý nhiệm mầu. Giảng như vậy thà đừng giảng còn ích lợi hơn đưa con người vào con đường mê muội. Thọ trì, biên chép, giảng nói cách nào mà chúng sinh nhận biết rằng chính họ là Phật thì mới nói đúng Pháp Hoa. Nói xa hơn là khi đã thâm hiểu Pháp Hoa thì không cần lạy cúng vị Phật nào để cầu xin sự ban ơn, gia bì vì chính mình là Phật rồi, chính mình cũng có đầy đủ chất Phật là Tri Kiến Phật rồi. Vì vậy muốn thực sự trở thành Phật thì chỉ cẩn kiểm soát thân khẩu ý. Nếu thân khẩu ý hoàn toàn thanh tịnh thì mình là Phật bằng không thì mình là chúng sinh do đó mê là chúng sinh, thức tỉnhgiác ngộ, là Phật. Đạo Phật luôn dạy chúng sinh sốngtheo chân lý, sống đúng với chân lý và sống phù hợp với chân lý.

Dược Vương! Nếu có người bất thiện, dụng ác tâm ở trước Phật chê mắng Phật suốt một kiếp tội còn nhẹ. Nếu có người hung hãn chưỡi mắng người tại gia hay xuất gia thọ trì, đọc tụng kinh Pháp Hoa thì tội rất nặng.

Tại sao? Nếu chê mắng Phật thì chỉ chê mắng có một vị Phật mà Phật ở đây có thể chỉ là Phật tướng, Phật đồng, Phật gổ thì tội còn nhẹ. Còn người biết thọ trì, ghi chép, giảng nói, đọc tụng kinh Pháp Hoa thì mọi người sẽ biết mình là Phật, tương lai mình sẽ thành Phật vì thế nếu chê bai mắng nhiếc việc làm của họ chẳng khác nào xúc phạm đến vô lượng chư Phật tương lai làm họ thoái tâm Bồ Đề thì tội chắc chắn sẽ nặng hơn nhiều. Kinh Kim Cang có dạy rằng:

Nhược dĩ sắc kiến ngã

âm thanh cầu ngã

Thị nhơn hành tà đạo

Bất năng kiến Như Lai.

Dịch là:

Nếu thấy Ta bằng sắc tướng

Nghe Ta bằng âm thanh

Người nầy đi đường tà

Không thấy được Như Lai.

Một lần nữa chính đức Phật dạy chúng sinh phải phá trừ Vô minh vọng chấp để đạt được trí tuệ Bát Nhã thì mới thật thấy và thật nghe được Phật. Trái lại, nếu còn vô minh vọng chấp có nghĩa là chấp có sắc tướng hay âm thanh của Phật thì không bao giờ thấy được Phật. Bởi thế nên Phật mới quở là “Người nầy đi đường tà” tức là vọng thì sẽ không bao giờ thấy được Như Lai. Như thế nếu từ cửa Bát Nhã là cửa “Không” chúng ta bước vào trong nhà thì bây giờ mới thấy được tâm Phật của mình. Nếu sống với tâm Phật nầy là mở rộng cánh cửa giải thoát để chứng ngộ Niết bàn. Nhưng đây là một thứ Niết bàn tự tánh thường vắng lặng mà thường sáng suốt. Nó vẫn thường bộc lộ sáng suốt nơi chư Phật mà vẫn thường sẵn có nơi mọi loài chúng sinh. Mà kinh gọi là Phật tánh, là Chơn tâm, là Như Lai tạng. Chính tự tánh Niết bàn nầy có đầy đủ bốn đức là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. “Thường” nghĩa là không bị chi phối bởi tánh vô thường, khi nào cũng như khi nào, không lên bổng xuống trầm, không còn già trẻ, sống chết đổi thay.“Lạc” là không còn khổ não lo buồn, an vui tự tại. “Ngã” là được hoàn toàn tự chủ và không bị nội tâm hay ngoại cảnh chi phối. “Tịnh” là không còn ô nhiễm, luôn luôn thanh tịnh, trong sáng.

Kinh nói tội nặng không có nghĩa là Phật sẽ đọa mình vào địa ngục hay Phật sai nam tào bắc đẩu đến xóa sổ mà tội nặng là mình không chấp nhận chính mình có khả năng thành Phật, chính mình không tin khả năng chuyển hóa thân khẩu ý của mình cho thật thanh tịnh ðể Phật chất ðýợc hiển lộ. Do ðó tội nặng là tự mình chôn vùi cuộc đời của mình vào trong bể trầm luân, không có lối thoát thế thôi chớ có ai bắt tội mình đâu. Vì thế trong kinh Đại Tạng có câu: “Tội hành nghiệp cảm” nghĩa là con người làm biết bao tội nghiệp trái với chơn lý thì chính họ sẽ cảm lấy cái quả báo nó sẽ đến với họ do đó Phật giáo phủ nhận hoàn toàn chủ thuyết Thượng đế vì nếu Thượng đế sinh ra ta thì ai sinh ra Thượng đế? Cho nên chính ta mới là Thượng đế của chính mình, chính ta mới có đủ khả năngnăng lực làm chủ cuộc đời của mình và chỉ có ta mới thay đổi được định mệnh của mình chớ không ai khác.

Dược Vương! Người đọc tụng kinh Pháp Hoa, phải biết người đó dùng đức trang nghiêm của Phật tự trang nghiêm mình. Như Lai dùng vai mà vác người đó. Mọi người nên dùng những thứ: hương hoa, kỹ nhạc quý báu nhất trong cõi đời để cúng dường. Vì sao? Bởi vì nghe pháp của người đó nói trong khoảng giây lát bèn được tỏ ngộ chân lý rốt ráo đối với quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Để lập lại nghĩa trên đức Thế Tôn nói một bài kệ.

Người đã có đức tin vững chắc nơi kinh Pháp Hoa thì người đó dùng đức trang nghiêm của Phật tự trang nghiêm cho mình. Tại sao? Bởi vì họ lấy trí tuệ nhận thức chân lý của Phật dạy để áp dụng trong đời sống của mình thì mình sẽ được sự an lành, có sự giải thoát như Phật. Hằng ngày chúng sinh nên kiểm soát thân khẩu ý của mình, phải biết sống trong thức tĩnh và luôn giữ chánh niệm thì những ác niệm, tà kiến không bao giờ dấy động trong tâm của mình. Vọng niệm tan biến thì tịch diệt hiển bày, thân tâm tự tại.

Rồi đức Phật dạy tiếp:

-Dược Vương ! Kinh điển của ta có thể nói nhiều vô lượng, đã nói đang nói và sẽ nói mà trong đó kinh Pháp Hoa khó tin và khó hiểu. Kinh nầy là tạng bí yếu của chư Phật, không thể truyền trao khinh suất bừa bãi cho những người không đúng đối tượng căn cơ. Đây là thứ kinh chư Phật giữ gìn cẩn mật chưa từng diễn nói. Bởi vì Như Lai còn tại thế nói ra còn nhiều người oán ghét huống chi sau khi Như Lai diệt độ.

Dược Vương nên biết: Sau Như Lai diệt độ, người nào thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói cho người khác nghe, Như Lai lấy y mà trùm, người đó được chư Phật trong mười phương hộ niệmNhư Lai lấy tay xoa đầu và người đó cùng với Như Lai ở chung.

Từ khi đức Phật thành đạo cho đến khi Ngài nói kinh Pháp Hoa thì Ngài thuyết rất nhiều nào là Tứ Diệu Đế, nào là Thập Nhị Nhân duyên…nhưng kinh Pháp Hoa mới là bậc nhất vì nghĩa lý siêu xuất của nó nên tuy Pháp Hoa là đệ nhất kinh văn mà lại là kinh khó tin, khó hiểu nhất. Cái tuyệt của kinh là chỉ thẳng Tri Kiến Phật, là chỗ giác ngộ viên mãn mà Phật đã thành tựu và Ngài biết mỗi chúng sinh cũng có sẵn cái Tri Kiến Phật giống y như Phật nên Ngài mới khai mở, chỉ bày, làm tỏ ngộ và thâm nhập cái thấy biết của mình để chúng sinh tu thành Phật như Ngài. Kinh Pháp Hoa là tạng pháp quan trọng và bí mật nhất của mười phương chư Phật nên phải có đúng đối tượng mới có thể tiếp thọ và thọ trì nó được. Khi Phật nói kinh Pháp Hoa thì có một số người chẳng những không tin mà còn sinh tâm oán hận vì vậy mai sau khi Phật nhập diệt thì chắc chắn số người xem thường, phỉ báng sẽ không ít.

Mãi sau khi đức Phật nhập diệt, nếu có người thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói kinh Pháp Hoa cho người khác nghe thì sẽ được Phật lấy y Cà sa trùm lên người đó và còn được mười phương chư Phật luôn gia bị bảo hộ cho người đó và được Phật lấy tay xoa đầu khiến cho họ khai mở đại trí tuệ. Có thật như thế chăng? Nếu chúng ta thọ trì kinh Pháp Hoa tức là chúng ta tin nhận nơi mình có Tri Kiến Phật tức là trong ta đã có Phật (tánh) hiện hữu thường hằng rồi. Nói cách khác thọ trì kinh Pháp Hoa là biết ta là Phật, chúng sinh là Phật, ai ai cũng đều là Phật vì vậy Phật xoa đầu, lấy y trùm hay ở với chúng ta là vậy. Nên nhớ chữ Như Lai kinh dùng ở đây không phải là đức Phật Thích Ca mà chỉ cho Pháp thân, Phật tánh, Tri Kiến Phật, là bản thể thanh tịnh của tất cả mọi chúng sinh.

Dược Vương! Ở nơi chốn nào có kinh nầy hoặc giảng nói hoặc đọc tụng nên xây tháp bằng bảy báu cao rộng đẹp đẽ mà trong đó không cần tôn trí xá lợi. Bởi vì trong đó có tòan thân Như Lai rồi. Nên dùng các thứ hương hoa, trân bảo, tràng phan… để cúng dường tháp. Người nào thấy tháp lễ bái cúng dường, phải biết những người đó đã gần gũi với quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Tại sao Phật dạy bất cứ ở nơi nào mà có người giảng nói, đọc tụng kinh Pháp Hoa hoặc có kinh Pháp Hoa thì nên xây tháp bằng bảy báu cao rộng đẹp đẽ mà trong đó không cần để Xá Lợi? Bởi vì kinh Pháp Hoa nói về Tri Kiến Phật tức là Phật tánh sẵn có nơi mỗi chúng sinh cho nên có kinh Pháp Hoa là có Pháp thân, Phật tánh hiện bày ở đó rồi nên không cần Xá Lợi nữa. Còn người đọc tụng, thọ trì kinh Pháp Hoa là người tin rằng chính mình có Phật tánh tức là mình là Phật, mình sẽ thành Phật. Mà con đường để viên thành Phật quả thì chúng sinh phải giữ gìn thân khẩu ý cho thanh tịnh. Mỗi ý niệm lành, một lời nói thiện hay một hành động tốt là những trân bảo để cúng dường cho vị Phật trong tâm của chúng ta.Nếu nói về vật chất thế gian thì bảy báu là vàng, bạc, lưu ly, xà cừ, trân châu, san hômã não. Nhưng ở đây, bảy báu là bảy con đường thiện xảo đưa con người từ mê đến giác, từ phàm đến Thánh. Đây chính là Thất Thánh Tàigồm có: Giới, Tín, Văn, Sám hối, Tinh tấn, Buông xảTrí tuệ.

Vànglà vật cao quý chẳng khác gì Giới

Bạclà sự thay trắng đổi đen nên ám chỉ cho Tín tức là lòng tin tưởng vào Phật pháp, không còn nghi ngại.

Lưu lylưu chuyển tượng trưng cho Văn tức là tánh nghe.

Xà cừhình tướng xấu xa nên ám chỉ cho Sám hối.

Trân châulà thanh cao tượng trưng cho Tinh tấn.

San hôthì tượng trưng cho Buông xả.

Mã nãothì sáng chói tượng trưng cho Trí tuệ.

Bồ tát hành đạo mà chưa thấy chưa nghe được kinh Diệu Pháp Liên HoaBồ tát chưa khéo tu đạo Bồ tát. Những chúng sanh cầu Phật đạo, hoặc thấy hoặc nghe, nghe rồi tin hiểu thọ trì nên biết người đó đã gần gũi với quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác rồi. Thí như có người khát nước đào giếng ở gò cao, đào thấy đất còn khô, biết rằng gần tới nước. Bồ tát cũng vậy, thọ trì, biên chép, giảng nói kinh Pháp Hoa phải biết quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác đối với Bồ tát đó gần kề.

Phật dạy rằng Bồ Tát hành đạo mà chưa nghe thấy kinh Pháp Hoa thì họ chưa khéo tu đạo Bồ Tát. Tu hạnh Bồ Tát là vì người quên mình cho nên nếu không biết kinh Pháp Hoa nghĩa là không biết trong mỗi chúng sinh đã có mầm giống Phật, là Phật tánh thường hằng vĩnh cữu vì thế khi biết mọi người là Phật thì các hạnh của Bồ Tát dễ thực hành bởi vì làm việc cho Phật thì họ không câu chấp trong khi phục vụ cho người thì có lúc tiến có lúc lùi. Thêm nữa, người trở về với Phật tánh của chính mình là người gần với Phật rồi nên họ rất gần với đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Ở đây Phật dùng thí dụ con đường trở về với Phật tánh cũng như người đào giếng. Muốn đào một cái giếng sâu bảy, tám thước thì trước hết đào lớp đất cứng trên mặt, rồi sau đó tới lớp đất mịn và sau cùng mới tới lớp đất ướt. Cũng vậy, người nào biết thọ trì giảng chép kinh Pháp Hoa là chính họ tự đặt đầy đủ niềm tin rằng họ sẽ thành Phật. Đây là Phật nhân rất cần thiết làm nhân địa tu hành để hoàn thành Phật quả tức là có đi mới có đến vì thế họ đang đi trên còn đường Vô thượng Bồ Đề nên Phật nói họ sắp thành Phật là vậy.

Dược Vương! Nếu Bồ Tát nào nghe kinh Pháp Hoakinh nghi sợ sệt đó là Bồ tát mới phát tâm. Nếu hàng Thanh Văn nghe kinh này mà kinh nghi sợ sệt đó là hàng Thanh Văn tăng-thượng-mạn.

Kinh Pháp Hoa là Phật chỉ thẳng Tri Kiến Phật cho nên nếu tin nhận trong ta đã có sẵn cái Tri Kiến Phật này làm nhân địa tu hành thì người đó nhất định sẽ thành Phật. Tri Kiến PhậtPhật nhân còn thành PhậtPhật quả. Do đó nếu Bồ Tát tu là để thành Phật mà khi nghe kinh Pháp Hoa lại lo sợ thì đủ biết hạng Bồ Tát này chỉ là phát tâm Bồ Tát, là người mới bắt đầu nên chưa hiểu, chưa tin. Ngược lại đối với hàng Thanh Văn là những người chứng đạo mà không muốn tiến tu để hoàn thành Phật đạo thì Phật gọi họ là những người tăng thượng mạn hay định tánh A la hán. Nhắc lại khi Phật bắt đầu nói kinh Pháp Hoa thì có trên 5.000 người gồm A la háncư sĩ nam, nữ đã rời pháp hội. Phật nói tăng thượng mạnám chỉ cho những người này.

Dược Vương! Nếu có trai lành gái tốt sau Như Lai diệt độ muốn vì hàng tứ chúng mà nói kinh Pháp Hoa thì nên ở trong nhà Như Lai, mặc y Như Lai và ngồi trên tòa của Như Laithuyết kinh. Nhà Như Laitâm từ bi. Y Như Lai là nhẫn nhụcTòa Như Lai là “ Vạn Pháp Giai Không”.

Dược Vương, Phật dù ở thế giới khác xa xăm nhưng Phật sai hàng hóa nhơn, hàng tứ chúng (Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di) đến nghe pháp và tin nhận thuận theo không chống trái. Nếu nói pháp ở chổ vắng Như Lai sai Thiên Long, Càn Thát Bà… đến nghe pháp. Phật dù ở nước khác nhưng khiến người nói pháp luôn luôn được thấy thân ta. Nếu có quên sót câu lối. Như Lai sẽ nhắc cho họ nói kinh được đầy đủ.

Để lập lại nghĩa trên Thế Tôn nói một bài kệ.

Sau khi đức Phật nhập diệt, ở đời sau nếu có người muốn nói kinh Pháp Hoa thì người đó phải ở trong nhà Như Lai, mặc y Như Lai và ngồi trên tòa của Như Laidiễn thuyết. Thế nào là nhà Như Lai? Nhà Như Lai là có đủ tâm đại từ bi rộng lớn đối với tất cả chúng sinh. Tâm đại bi là tâm thương xót chúng sinh, xem sự đau khổ của chúng sinh là sự đau khổ của chính mình, làm việc vì người không quảng ngại khó nhọc, chấp nhận nghịch cảnhtâm không sân hận, kiên nhẫn giúp người vượt qua bể khổ sông mê. Mặc y Như Lai là có tâm nhu hòa, nhẫn nhục đối với mọi khổ chướng, không có lửa vô minh nóng giận. Ngồi tòa Như Lai là phải có trí tuệ rộng lớn thấy rõ thật tướng của vạn phápKhông tướng bởi vì tất cả các pháp không có tự thể cố định cho nên vạn pháp là Không.

Tại sao Phật đưa ra ba điều kiện để một người có thể giảng nói kinh Pháp Hoa thay vì chỉ đọc tụng, thọ trì hay biên chép giảng nói bình thường? Kinh Pháp Hoa là kinh nói về Tri Kiến Phật tức là trí tuệ của Phật. Mà Tri Kiến PhậtPhật tánh, là tánh giác vốn có sẵn nơi mỗi chúng sinh, nhưng vì bị vô minh vọng chấp che lấp. Vì thế muốn cho cái tánh giác này được hiển lộ thì phải phát triển trí tuệ để thấy biết rõ ràng thật tướng của tất cả các pháp không có tự thể cố định chỉ tùy duyên tạm có nên huyễn hóa không thật.Thí dụ hằng ngàymắt vẫn thấy sắc như nhà to, xe đẹp, áo lụa, quần là…Nếu là người thường thì dễ bị nó lôi cuốn, nhận chìm, mê hoặc vào đó, nhưng đối với người có tư duy chánh niệm thì nhận thức được hiện tượng của vạn phápvô thường nên tâm họ không hề bị dính mắc. Họ quán rằng vạn pháp là không nghĩa là tất cả mọi vật thể trong thế gian này dù to lớn như mặt trời, mặt trăng hay nhỏ như hạt cát như vi trần đều do duyên khởi tác tạo mà thành chớ không vật nào tự nó sinh khởi hay tồn tại được cho nên vật thể là vô ngã, không có tự thể nên tuy là có, là thấy sờ sờ ở đó nhưng một ngày nào đó nó sẽ bị biến hóa, tiêu hoại nên gọi là không. Do đó, cái không của Phật giáo là không tham đắm, si mê, không chấp thủ chạy theo hình sắc sinh diệt chớ không phải dùng thần thông hay quán làm biến đi tất cả. Người có tư duy, chánh niệm khi thấy đóa hoa đẹp thì họ vẫn biết cái đẹp của hoa đấy chứ, nhưng họ quán rằng đóa hoa là dotrùng trùng duyên khởi mà thành vì vậyđến tuần sau đóa hoa bắt đầu héo úa, tàn phai rồi trở thành phân bón cho nên nhìn đóa hoa thì họ cũng nhìn, cũng biết nó đẹp, nhưng không đắm nhiễm say mê, lúc nào cũng tự tại với sắc đẹp. Lấy đóa hoa làm tiêu chuẩn để nhìn tất cả những hình sắc khác trên thế gian này cho nên tuy mắt có nhìn các loại trân châu bảongọc quý báu, đẹp đẽ đến đâu thì nó cũng là loại vô thường hoại diệt. Ngược lại nếu nhìn theo con mắt của phàm nhân thì tham đắm, say mê rồi chấpthủ đem về làm của riêng cho mình đưa đến tranh chấp, chiến tranh giết hại lẫn nhau. Nói tóm lại, người biết đạo thấy đẹp thì cũng biết là đẹp, nhưng họ biết vật chất đó từ “Không” mà “Có” vì thế một ngày nào đó từ “Có” sẽ trở thành “Không” cho nên thấy tất cả vật chất nhưng không bị chúng lôi cuốn nhận chìm nên họ mới có an nhiên tự tại được. Đó chính là “Kiến sắc phi can sắc” vậy. Người học Phật không những thấy biết rõ ràng sự hoại diệt, vô thường của thế gian mà còn thấy rốt ráo sự trường tồn vĩnh cửu tức là tánh vô sanh vô diệt của vạn pháp nữa. Bởi vì lúc đóa hoa tàn úa thì từ cái diệt này bắt đầu cho sự sanh khác để tạo thành đóa hoa mới.Đó là hiện tượng quy về bản thểbản thể duyên khởi thành ra hiện tượng cho nên không có cái gì là thật sinh hay cái gì là thật diệtnghĩa làsinh để rồi diệt, diệt rồi lại sinh, sinh sinh diệt diệt vô cùng vô tận nên sinh diệt, sống chết là chuyện thường, chẳng có gì quan trọng nên không còn lo sợ, buồn phiền. Chúng sinh khi thấy mình già yếu, bệnh tật thì đau khổ, lo âu, sợ sệt. Ngược lại, đối với người biết đạo thìsống chết là chuyện bình thường, tử sanh là trò dâu biển nằm trong chu kỳ bất biến tùy duyên rồi tùy duyên bất biến thế thôi.

Con người có khổ, có nhiều tham vọng, có sống chết bảo vệ những cái có của họ cũng vì họ chấp thế gian là thật, nhà cửa là thật, xe cộ là thật, thân này là thật ngay cả vọng tưởng cũng cho là thật. Bây giờ hãyquán rằng “vạn pháp giai không” nghĩa là thân này là do duyên giả hợp tạm có, thế gian vũ trụ cũng là tướng duyên hợp không thật ngay cả vọng tưởng cũng là tướng duyên hợp chợt hiện chợt mất. Vì vậy khi biết thân này không thật, cảnh vật không thật, vọng tưởng không thật, tiền tài danh vọng như giấc mộng, như huyễn hóa, như bọt nước, như bong bóng trời mưa, như làn sương buổi sáng, như ánh điện chóp nhanh, có đó rồi mất đó, rốt cuộc chẳng có gì.

Nếu người có đủ ba điều kiện trên mà vì chúng sinh nói kinh Pháp Hoa thì Phật sẽ sai hóa nhân và hàng tứ chúng đến để nghe pháp. Người nói kinh Pháp Hoa là người tin rằng chính mình có Tri Kiến Phật tức là có Phật tánh rồi cho nên họ có thuyết kinh Pháp Hoa ở bất cứ nơi nào thì ở nơi đó đã có Phật gia hộ cho họ.

Tóm lại, trong phẩm này đức Phật tán thán kinh Pháp Hoa là kinh quý hiếm nhất trên đời vì thế Phật tán thán những ai biết thọ trì, đọc tụng, giảng nói kinh Pháp Hoa cho mọi người để cho họ biết rằng trong họ đã có sẵn Tri Kiến Phật. Tri Kiến PhậtPhật nhân và từ đó con người sẽ tinh tấn nỗ lực loại bỏ hết vô minh phiền não để trở về với Phật quả của mình tức là thành Phật. Muốn trở thành một vị pháp sư lỗi lạc để truyền bá kinh Pháp Hoa thì phải hội đủ ba điều kiện là có tâm đại từ bi, biết nhu hòa nhẫn nhục và sống bằng trí tuệ Bát Nhã.

Sau cùng nếu chúng sinh biết thọ trì, đọc tụng, giảng nói kinh Pháp Hoa thì chính họ đã phát huy chủng tử Phật tức là Tri Kiến Phật trong họ rồi. Nói thế không phải Tri Kiến Phật chỉ dành cho những người biết kinh Pháp Hoa, đọc kinh Pháp Hoa, giảng nói kinh Pháp Hoa hay biết một bài kệ hay một chữ kinh Pháp Hoa mà thật ra Tri Kiến Phật đã có sẵn trong tất cả mọi chúng sinh cho dù họ không biết gì về kinh Pháp Hoa cả. Nói cách khác biết đọc, tụng, thọ trì kinh Pháp Hoa thì được Phật thọ ký cho thành Phật, nhưng không biết gì về kinh Pháp Hoa cũng vẫn được Phật thọ ký như thường. Tuy nhiên, muốn thành tựu cái Tri Kiến Phật đó người đệ tử Phật phải thực hành rốt ráo ba điều kiện Phật dạy ở trên chớ không chỉ là lễ bái, trì tụng suông mà cho là đủ công đức sẽ thành Phật. Vì vậy thành Phật thì ai cũng có khả năng thành, nhưng thật sự có thành hay không còn tùy thuộcchúng sinhđứng đắn thực hành ba điều kiện Phật dạy hay không.

Phẩm này cho thấy tầm quan trọng của Pháp cũng quan trọng như Phật. Chúng sinh thường cúng dường Phật thì ở đây kinh dạy rằng cúng dướng Pháp cũng có đầy đủ phước đức như cúng dường Phật vậy cho nên niệm Pháp cũng tương đương với niệm Phật vì đó là niệm tâm tức là thức tỉnh cái Tri Kiến Phật vốn có của mình. Đến đây là phần kết thúc của phần Tích môn (đức Phật lịch sử tức là Phật Thích Ca) dựa theo luận thuyết Thiên Thai tông của Đại sư Trí Khải và chuẩn bị mở cửa để vào pháp giới Bổn môn, là thế giới của mười phương chư Phật quá, hiện, vị lai.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19863)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
(Xem: 28978)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20694)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19452)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30511)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36435)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33243)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35580)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 20996)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21927)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25266)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25801)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 31271)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
(Xem: 18567)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25149)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23777)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28949)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20874)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31456)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25553)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29726)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22530)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25727)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23294)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25756)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23731)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40618)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23357)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22459)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22104)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23517)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 16972)
Con người khác với loài động vật ở chổ biết đặt vấn đề về giá trị của đời sống; sống như thế nào thì gọi là thiện là tốt hoặc ngược lại là ác là xấu?
(Xem: 23290)
“Nếu Phật tử cố ăn thịt. Tất cả thịt của mọi loài chúng sanh đều không được ăn. Luận về người ăn thịt thì mất lòng đại từ bi, dứt giống Phật tánh...
(Xem: 24319)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41114)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 19005)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20502)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27732)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38133)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 34084)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 36797)
Thiện namthiện nữ, nay các người lãnh thọ giới pháp rồi thì phải tôn kính mà vâng giữ, không được vi phạm giới pháp cần phải phụng trì.
(Xem: 24009)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29204)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60167)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27629)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68754)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24543)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 24506)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22721)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26379)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 26554)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 20828)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20073)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27561)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46455)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 53592)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23618)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21100)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 25597)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29276)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant